Thứ Sáu, 27 tháng 7, 2012

THƯƠNG CẢNG THỊ NẠI (CHAMPA) TRONG HỆ THỐNG THƯƠNG MẠI ĐÔNG Á, phần 1

THƯƠNG CẢNG THỊ NẠI (CHAMPA) TRONG HỆ THỐNG THƯƠNG MẠI ĐÔNG Á

Đỗ Trường Giang

Phần 1:

1. Vị trí của các thương cảng Champa trong mạng lưới hải thương khu vực



Thương cảng Thị Nại (đường màu xanh, Vijaya)


Các nhà nghiên cứu lịch sử hải thương châu Á đều khẳng định vai trò, vị thế và sức ảnh hưởng của ba thị trường kinh tế lớn, cũng đồng thời là ba trung tâm văn minh lớn và sớm của Á châu, bao gồm Trung Hoa, Ấn Độ và bán đảo Arab. Các trung tâm văn minh ấy về cơ bản đều đã được triển nở tại những vùng châu thổ của những con sông vĩ đại, đồng thời kiến lập nên những vương triều vĩ đại. Sự kết nối giữa các trung tâm văn minh vĩ đại và thị trường rộng lớn đó đã dẫn tới sự hình thành của những “Con đường tơ lụa” trên bộ và trên biển. Sự hưng thịnh, suy tàn của các thị trường ấy, cũng như là những chính sách được thực thi bởi các vương triều ở những trung tâm văn minh lớn này luôn dẫn đến những tác động trực tiếp và sâu sắc đối với mạng lưới thương mại (cả trên bộ và trên biển) của khu vực, cũng như là tác nhân quan trọng dẫn tới sự ra đời, hưng thịnh và suy vong của nhiều quốc gia nằm trên các tuyến thương mại đó. Cho đến trước khi có sự xuất hiện của các thương nhân Âu châu sau thời kỳ phát kiến địa lý, thì những người nắm giữ vai trò chi phối đối với mạng lưới thương mại khu vực kết nối các khu vực với nhau, được ghi nhận rộng rãi, là các thương nhân Trung Hoa, thương nhân Ấn Độ, thương nhân Arab và những hải nhân Malayo-polinesian.
Trong sự phát triển của nền hải thương Á châu, khu vực Đông Nam Á – đặc biệt là “Thế giới hải đảo Đông Nam Á” (Maritime Southeast Asia), có một vị trí vô cùng quan trọng: một trung gian điểm trong việc kết nối thị trường Đông và Đông Bắc Á với thị trường Nam và Tây Á, đặc biệt là sau khi Con đường tơ lụa trên bộ gặp nhiều khó khăn trong việc chuyển vận các nguồn hàng giữa các trung tâm và Con đường tơ lụa trên biển trở nên thiết yếu trong việc duy trì các mối liên hệ đó. Khi sự phát triển của mối giao thương giữa các trung tâm kinh tế lớn càng phát triển, thì các vùng biển của Đông Nam Á càng có những cơ hội để dự nhập vào mạng lưới hải thương khu vực, tận dụng môi trường kinh tế biển, kiến lập các Trung tâm liên thế giới để vận hành mạng lưới riêng của khu vực[2]. Sự suy yếu của một/hay đồng thời nhiều trung tâm kinh tế lớn, ở chiều hướng ngược lại, dẫn tới sự suy yếu, khủng hoảng và thậm chí diệt vong của nhiều Thể chế biển vốn phụ thuộc chặt chẽ vào sự vận hành của mạng lưới hải thương (sự diệt vong của các vương quốc biển Phù Nam, Srivijaya hay Malacca có thể được xem như là những ví dụ điển hình cho luận điểm này). Tuy nhiên, Đông Nam Á không phải /và không bao giờ là một khu vực lệ thuộc hoàn toàn và bị động vào sự vận hành của mạng lưới thương mại biển khu vực, được dẫn dắt bởi các trung tâm văn minh lớn và dưới sự điều hành của các thương nhân Trung Hoa, Ấn Độ hay Arab. Ngược lại, các nguồn sử liệu Đông Nam Á, cũng như sử liệu ngoài khu vực đã minh chứng sự chủ động, tích cực và vai trò của các chính thể vùng Đông Nam Á – đặc biệt là các chính thể đã từng tồn tại ở vùng Eo Malacca cũng như là các Thể chế biển trong khu vực, trong việc dự nhập vào mạng lưới hải thương châu Á cũng như sự vận hành của mạng lưới này. Vai trò chủ động và tầm hoạt động rộng lớn trên khắp các mặt biển châu Á của các thương nhân gốc Malayu đã là một ví dụ quan trọng cho tính chủ động của thương nhân Đông Nam Á[3]. Bên cạnh đó, Đông Nam Á còn được biết đến như những trung tâm cung cấp các mặt hàng thiết yếu cho các thị trường lớn, đặc biệt là các mặt hàng có nguồn gốc nhiệt đới như quế, trầm hương, long não, đinh hương, nhục đậu khấu, tô mộc…[4]. Các chính thể vùng Đông Nam Á là những chủ nhân và đồng thời là những người vận hành của các mạng lưới trao đổi nội địa, nội vùng và liên vùng ấy; thu gom các mặt hàng có giá trị cao trên thị trường (đặc biệt là các nguồn hàng có nguồn gốc từ các vùng Cao Nguyên), chuyển vận tới các cảng thị cận duyên và từ đó dự nhập vào mạng lưới thương mại khu vực và quốc tế.
Xét trên bình diện khu vực Đông Nam Á, một khu vực mà yếu tố biểnđược xem như một đặc trưng mang tính phổ quát cho toàn khu vực[5]. Nằm trên tuyến đường hải thương quốc tế kết nối với các trung tâm kinh tế lớn của thế giới, nên việc phát triển ngoại thương và dự nhập vào mạng lưới hải thương khu vực luôn có một sức hút lớn đối với các chính thể trong khu vực – bao gồm cả các Chính thể trọng nông (agrarian-based polities) như Java, Angkor hay Đại Việt và các Chính thể trọng thương hay Thể chế biển (Commercial-based polities/marine polities). Trong một bối cảnh lịch sử và điều kiện Địa – sinh thái và Địa – kinh tế như vậy, các hải cảng trong suốt chiều dài lịch sử, luôn giữ một vai trò quan trọng đối với các chính thể này[6]. Các thương cảng đó nắm giữ chức năng như các trung tâm đầu mối (entrepot) cho việc giao thương trong một khu vực và đồng thời kết nối các khu vực với nhau. Các dòng sông và tuyến đường mòn ven sông thường là kênh giao tiếp chính (đôi khi là duy nhất) đối với vùng nội địa và phụ thuộc vào địa hình của vùng duyên hải, sự hiện diện của các đầm lầy cũng như khả năng di chuyển của các thương thuyền lớn. Trong một số trường hợp, thủ phủ (capital city) có thể nằm cách xa bờ biển một vài dặm về phía nội địa[7]. Tính quốc tế của các Chính thể cảng (Port-polities) là một đặc điểm thể hiện sự phồn vinh của nó. Các cảng thị không chỉ là kinh đô về chính trị, thương mại mà còn là các trung tâm văn hóa của các chính thể…[8]. Một số cảng thị tiêu biểu của vùng Đông Nam Á trước khi có sự hiện diện của các đoàn thuyền buôn châu Âu có thể kể tới là: Srivijay Palembang, Melacca, Thi Nại (Champa) v.v… Sự hình thành, hưng khởi và suy tàn của các thương cảng, hay các Chính thể cảng thị của vùng Đông Nam Á, một mặt thể hiện các giá trị, đặc điểm chung mang tính phổ quát nhưng mặt khác cũng thể hiện sự phản ứng và thích ứng của những người đứng đầu các chính thể đó trước các cơ hội, thách thức của môi trường Địa – kinh tế khu vực, thế giới.
Trên con đường thương mại biển của khu vực và thế giới ấy, vùng biển Vịnh Bắc Bộ (biển Giao Châu) và cả vùng Biển Đông của Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử đã có một vị trí thiết yếu và có những đóng góp tích cực đối với sự chuyển vận của mạng lưới này. Các vùng biển này nằm liền kề với các trung tâm thương mại lớn ở Nam Trung Hoa (cảng Quảng Châu) và nắm giữ vai trò cầu nối giữa thị trường Đông Bắc Á với các trung tâm kinh tế khác ở cả Đông Nam Á, Nam Á và Tây Á nên đã sớm được các thương nhân quốc tế xem như là một khu vực có vị trí chiến lược quan trọng cả về mặt địa-chính trị và địa-kinh tế[9]. Trong suốt một thời kỳ lịch sử dài lâu, vương quốc Champa đã được ghi nhận là chủ nhân của vùng bờ biển dài dọc theo bờ biển miền Trung Việt Nam ngày nay. Các hệ thống cảng biển ven bờ của Champa đã sớm được ghi nhận như những địa điểm dừng chân thường xuyên của các đoàn thuyền buôn nội địa cũng như là ngoại quốc[10].  Các cư dân cổ của vương quốc này đã tận dụng triệt để việc khai thác các nguồn tài nguyên của một hệ sinh thái phổ tạp (General Ecosystem), đồng thời tận dụng các nhân tố ngoại sinh do điều kiện quốc tế mang tới để gây dựng nên trên mảnh đất này những vương triều hùng mạnh, một nền văn minh đặc sắc với những dấu tích hiện còn lưu lại đến ngày nay.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, trong suốt chiều dài lịch sử Champa chỉ đơn thuần là một Thể chế biển, lấy hoạt động kinh tế biển làm nền tảng và cũng là nhân tố quyết định sự tồn vong của vương quốc này. Quan điểm ấy dựa trên một thực tế là, vương quốc Champa đã hình thành và phát triển trên một không gian lãnh thổ dài và hẹp dọc theo ven biển miền Trung Việt Nam ngày nay, bị giới hạn về phía Tây bởi dãy núi Trường Sơn chạy dọc suốt chiều dài lãnh thổ, phía Đông là Biển Đông rộng lớn. Do tính chất địa hình núi và biển gần như nằm sát nhau, các con sông ở đây đều ngắn, đều chủ yếu chảy theo hướng Tây – Đông từ núi xuống biển, và mỗi con sông đều là một hệ thống riêng rẽ. Bờ biển miền Trung lồi lõm với rất nhiều vịnh nước sâu thuận lợi cho việc neo đậu của tàu thuyền. Bên cạnh đó còn có sự xuất hiện của những đảo, cụm đảo được hình thành trong quá trình tạo sơn như: Hòn Gió (Quảng Bình), đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị), Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Lý Sơn – Cù Lao Ré (Quảng Ngãi), Hòn Tre (Khánh Hoà), Phú Quý (Ninh Thuận – Bình Thuận)… Sinh thành và phát triển trong một điều kiện địa lý và môi trường sinh thái như vậy, các cư dân cổ Champa đã sớm lựa chọn cho mình con đường phát triển xuyên suốt trong lịch sử, đó là hướng biển, gây dựng một nền kinh tế biển bằng việc chủ động dự nhập vào mạng lưới hải thương của khu vực, và thực tế như đã được thừa nhận rộng rãi, Champa đã từng một thời là vương quốc biển điển hình của khu vực Đông Nam Á.
Champa là một Thể chế biển, đó là một quan điểm đã được thừa nhận rộng rãi. Tuy nhiên, có phải trong suốt chiều dài lịch sử ấy, Champa đơn thuần “chỉ là một Thể chế biển” như nghi vấn đã được nêu lên bởi GS. Momoki Shiro[11]?. Địa hình lãnh thổ cổ xưa của mandala Champa được nhìn nhận như là một trong những vùng đất bị chia cắt bởi các đèo, dốc và núi ven biển. Các vùng đồng bằng nhỏ hẹp nằm ở châu thổ của những con sông ngắn, có độ dốc cao bắt nguồn từ dãy Trường Sơn đổ ra biển, cộng thêm với khí hậu nóng ẩm đã đưa tới nhận định cho rằng kinh tế nông nghiệp của Champa là kém phát triển.
Tuy nhiên, không phải tất cả các đồng bằng ven biển đó đều là những vùng đồng bằng kém phì nhiêu, không thuận lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp bền vững. Các đồng bằng châu thổ sông Thu Bồn (thuộc tiểu quốc Amaravati – vùng Quảng Nam ngày nay), hay đồng bằng châu thổ sông Côn (thuộc tiểu quốc Vijaya – vùng Bình Định ngày nay) được ghi nhận như những vùng đồng bằng trù phú. Các vùng châu thổ lớn này đã tạo nền tảng cho sự phát triển một nền kinh tế nông nghiệp mang lại các nguồn thu ổn định và bền vững cho các tiểu quốc Amaravati và Vijaya. Dựa trên một nền tảng kinh tế nông nghiệp bền vững thuộc không gian châu thổ đó, các cư dân cổ tại các tiểu quốc này đã mở rộng và kết nối với các cư dân miền thượng thuộc không gian cao nguyên ở phía tây, cũng như các cộng đồng cư dân thuộc không gian duyên hải, và đương nhiên với cư dân của các vùng quần đảo xa hơn nữa. Các dòng sông – và nhánh của chúng như Thu Bồn hay sông Côn chính là trục chuyển vận và kết nối các không gian sinh thái – tộc người đó. Các cảng thị nằm ở hạ lưu của các con sông này nắm giữ vai trò là điểm kết nối giữa biển – “không gian cận duyên” và “không gian quần đảo”, với lục địa – “không gian đồng bằng” và “không gian cao nguyên”. Dựa trên sự đa dạng và nối kết chặt chẽ của các môi trường sinh thái như vậy, trong suốt chiều dài lịch sử của mình, các tiểu quốc Amaravati và Vijaya luôn nắm giữ một vị thế trội vượt và thậm chí là thống trị đối với các tiểu quốc khác trong mandala Champa. Các tiểu quốc Amaravati cùng với Vijaya có thể coi như những ví dụ điển hình cho nhận xét của GS. Trần Quốc Vượng khi ông nhấn mạnh rằng “người Chăm và văn hóa Champa trong khoảng 15-16 thế kỷ tồn tại đã thích nghi và ứng biến tài tình với mọi hệ sinh thái từ núi rừng tới biển khơi”[12]. Và, “người Chăm cổ có cái nhìn về biển đúng đắn, biết cấu trúc một nền kinh tế tổng hợp đa ngành, tuy còn chất phác, thô sơ nhưng đã biết khai thác mọi tài nguyên trên nguồn rừng, dưới biển khơi… để xuất khẩu, có đội chiến thuyền và thương thuyền đủ lớn, đủ mạnh để ra khơi góp phần xây dựng Champa hưng thịnh một thời”[13].
Không chỉ riêng vùng hạ lưu của sông Thu Bồn và sông Côn, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng, ở mỗi vùng hạ lưu của các hệ thống sông lớn trên lãnh thổ của mandala Champa xưa đều có dấu tích và sự hiện diện của các thương cảng cổ. Đầu thế kỷ XVII, khi ghé vào bờ biển miền Trung Việt Nam, C.Borri đã nhận xét: “Về hải cảng thì thật là lạ lùng, chỉ trong khoảng hơn 100 dặm 1 chút mà người ta đếm được hơn 60 cảng, tất cả đều rất thuận tiện để cập bến và lên đất liền là vì ở ven bờ có rất nhiều nhánh biển lớn”[14]. Dựa trên những khảo sát chuyên sâu tại miền Trung Việt Nam, cùng với một dự cảm nghề nghiệp sâu sắc, cố giáo sư Trần Quốc Vượng đã đưa ra giả thuyết về sự hiện diện của cả một nền văn hóa cảng thị tại miền Trung của Việt Nam[15]. Nhận thức mang tính khai mở của GS. Trần Quốc Vượng đã được các nhà nghiên cứu, đặc biệt là các chuyên gia khảo cổ học kế thừa và đi sâu nghiên cứu. Chuyên gia khảo cổ học Champa – Lê Đình Phụng, dựa trên việc khảo sát các dấu tích cảng thị ven biển miền Trung ngày nay, đã liệt kê ra danh sách các thương cảng cổ của mandala Champa, bao gồm: Katligara – nằm trên địa bàn tỉnh Quảng Trị ngày nay – có thể gần cảng Cửa Việt hiện đại; Jilina – nằm trên địa bàn thành phố Huế – cảng Tư Hiền – Tư Duy ngày nay; Indrapura – một thương cảng quan trọng, cửa ngõ của kinh đô Indrapura vươn ra biển mà theo ông chính là Đại Chiêm cảng nằm trên vùng đất Hội An (Quảng Nam – Đà Nẵng); Vi Ja Sa hay Thi Nại (Cri Boneithilibi Nai) mà hậu thân của nó là cảng Thị Nại – Quy Nhơn (Bình Định) ngày nay; Lingaparvata có thể nằm ở địa bàn ven thị xã Tuy Hòa (Phú Yên); Kauthara - có thể ven thành phố Nha Trang; và cuối cùng là Panduranga – cảng Phanrang ngày nay. Bên cạnh đó, tác giả cũng ghi nhận rằng, nhiều địa điểm /vụng biển khác ở miền Trung đều là những địa điểm thuận tiện cho tàu thuyền neo đậu như là Vũng Bàng (Quảng Ngãi), Vũng Rô (Phú Yên)…[16] Tuy nhiên, dựa trên những bằng chứng khảo cổ và tài liệu lịch sử còn lưu giữ, tác giả đi đến kết luận rằng, chỉ có Đại Chiêm cảng (thuộc tiểu quốc Amaravati) và Thị Nại cảng (thuộc tiểu quốc Vijaya) là những thương cảng thực và có vai trò quan trọng đối với lịch sử Champa, còn các địa điểm khác có chức năng chính là bến nước – nơi tàu thuyền dừng chân lấy nước ngọt[17].
Nhà nghiên cứu Hoàng Anh Tuấn, qua kết quả của các cuộc khai quật khảo cổ học, đã hoàn thành một chuyên luận khoa học quan trọng về thương cảng Cù Lao Chàm (tỉnh Quảng Nam ngày nay), trong đó tác giả khẳng định vị trí quan trọng của Cù Lao Chàm cũng như vương quốc Champa  trên tuyến đường tơ lụa quốc tế từ Đông sang Tây thời xưa. Theo đó, “những phát hiện quý giá về khảo cổ học là những bằng chứng xác nhận: trong suốt ngàn rưỡi năm dưới quyền kiểm soát của Champa, Cù Lao Chàm là thương cảng số một, là cửa ngõ thông thương của vương quốc Champa với bên ngoài”[18]. Các tác giả Trần Kỳ Phương, Vũ Hữu Minh trên cơ sở khảo sát thực địa cũng đã nhấn mạnh tới vai trò của cảng thị tại vùng Cửa Đại – Cửa Đại Chiêm ở lưu vực sông Thu Bồn (tỉnh Quảng Nam ngày nay). Các tác giả cho rằng “dưới thời vương quốc Champa, thương thuyền ngoại quốc ghé đến cửa Đại Chiêm – Lâm Ấp phố để buôn bán, trao đổi những đặc sản hoặc để lấy thêm lương thực, thực phẩm, đặc biệt nước ngọt để uống, trên tuyến đường từ A Rập, Ấn Độ, Đông Nam Á sang Trung Quốc, Nhật Bản và ngược lại”[19]. Bên cạnh đó, nghiên cứu về lịch sử hải thương khu vực Đông Nam Á, các học giả quốc tế cũng quan tâm tới một cảng thị quan trọng khác của Champa là Panduranga (thuộc tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay). Kenneth Hall cho rằng Panduranga đã từng là nơi có sự hiện diện của cộng đồng thương nhân Hồi giáo từ đầu thế kỷ XI và Panduranga là một trong những cảng chính trên bờ biển vùng nam Champa từ giữa thế kỷ X về sau…[20]. Như vậy, có thể thấy rằng, trong suốt chiều dài lịch sử, dựa trên những điều kiện sinh thái và địa lý nhân văn đặc thù, các tiểu quốc Champa đã dày công kiến lập nên một hệ thống các cảng thị ven biển, những tiền đồn để dự nhập vào mạng lưới hải thương của khu vực, quốc tế, kiến tạo những mối liên hệ cả về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa đối với các mandala khác trong khu vực cũng như với các trung tâm văn minh, kinh tế lớn của thế giới như Trung Hoa, Ấn Độ và Arab.

[1] Những ý tưởng cơ bản của bài viết đã được trình bày lần đầu tiên tại theFirst Congress of the Asian Association of World Historians (May 2009, Osaka, Japan). Tác giả xin bày tỏ long biết ơn đối với Đại học Osaka (Osaka University) đã đài thọ mọi kinh phí để tác giả có cơ hội góp mặt tại Hội thảo và trình bày báo cáo của mình. Trong quá trình hoàn thiện bài viết cũng như tiến hành khảo sát thực địa tại Bình Định và một số tỉnh Nam Trung Bộ, tác giả đã nhận được những ý kiến đóng góp, ý tưởng khai mở của PGS.TS Nguyễn Văn Kim và PGS.TS Ngô Văn Doanh. Bên cạnh đó, GS. Momoki Shiro và GS. Bruce Lockhart cũng đã có những góp ý quan trọng cho việc hoàn thiện bài nghiên cứu. Nhân đây, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn đối với sự quan tâm và những ý tưởng khoa học của các Thầy. Bài viết đã được công bố trong: Nguyễn Văn Kim (ed.), Người Việt với Biển [Vietnamese and the Sea], The gioi Publishing House, Hanoi, 2011, pp.285-314.
[2] Theo GS. Sakurai Yumio thì “trước thế kỷ thứ 10, Phù Nam, Srivijaya-Sailendra là những trung tâm liên thế giới có vị trí nổi bật ở khu vực Đông Nam Á. Trong thời đại thương mại các trung tâm vùng như Ayuthaya và Batavia đã phát triển thành các trung tâm liên thế giới”. Xem Sakurai Yumio: Thử phác dựng cấu trúc lịch sử của khu vực Đông Nam Á (thông qua mối quan hệ giữa biển và lục địa), Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á số 4, 1996tr.41.
[3] Về vai trò và ảnh hưởng của các cư dân Malayu trong lịch sử hải thương Á châu, đặc biệt là thế giới biển Đông Nam Á, có thể tham khảo công trình của GS. Leonard Y.Andaya: Leaves of the same tree – Trade and Ethnicity in the Straits of Melaka, University of Hawaii Press, Honolulu, 2008.
[4] Anthony Reid: Southeast Asia in the Age of Commerce, 1450-1680: The Lands Below the Winds. New Haven: Yale University Press, 1990; và Southeast Asia in the Age of Commerce: 1450-1680: Expansion and Crisis. New Haven: Yale University Press, 1993. Một tài liệu khác nghiên cứu về các nguồn hàng của Đông Nam Á trong trao đổi buôn bán với nhà Tống, có thể xem Paul Wheatley: Geographical Notes on Some Commodities Involved in Sung Maritime Trade, Journal of the Malayan, Malaysian Branch of the Royal Asiatic Society, 32, 2. Kuala Lumpur, 1959.
[5] Theo giáo sư Sakurai Yumio thì chỉ số duyên hải ISCL của khu vực Đông Nam Á (bao gồm cả Đông Nam Á lục địa) là 5 (Area/ length of Sea Coastal Line). Chỉ số này có ý nghĩa là tính bình quân 1 km bờ biển chỉ che phủ 5 km2đất liền. Trong khi đó ở Trung Quốc chỉ số này là 500. Thậm chí ngay cả ở Nhật Bản, được coi là “Đảo quốc” chỉ số này cũng còn là 20…Chính vì thế Đông Nam Á là khu vực có độ ẩm cao nhất thế giới và nóng ẩm đã biến Đông Nam Á thành “Thiên đường của thế giới thực vật”. Xem Sakurai Yumio: Thử phác dựng cấu trúc lịch sử của khu vực Đông Nam Á (thông qua mối quan hệ giữa biển và lục địa), Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4, 1996, tr.38.
[6] J.Kathirithamby-Wells and John Villiers (Ed.): The Southeast Asian Port and polity – Rise and Demise, Singapore University Press, 1990, pp.3
[7] J.Kathirithamby-Wells – John Villiers (Ed.): The Southeast Asian Port and polity, Sđd, pp.3
[8] J.Kathirithamby-Wells – John Villiers (Ed.): The Southeast Asian Port and Polity, Sđd, pp.4; tham khảo thêm công trình nghiên cứu của GS. Shigeru Ikuta: Vai trò của các cảng thị ở vùng ven biển Đông Nam Á từ đầu thế kỷ II TCN đến thế kỷ XIX; trong: Đô thị cổ Hội An, Nxb. Khoa học Xã hội, H., 1991.
[9] Li Tana: A View from the Sea: Perspectives on the Northern and Central Vietnam Coast, Journal of Southeast Asian Studies, 37/1 (2006), pp. 83-102; John K. Whitmore: The Rise of the Coast: Trade, State and Culture in Early Đại Việt, Journal of Southeast Asian Studies, 37/1 (2006), pp.103-122.
[10] Những ghi chép cụ thể về tuyến đường biển từ Quảng Châu của Trung Hoa đến các địa điểm của Champa có thể thấy trong Tân Đường Thư. Tài liệu này cho biết “Đời Đường năm Trinh Nguyên, Giả Đam chép rằng: đường Quảng Châu vào biển, đi về phía Đông Nam 200 dặm đến núi Đồn Môn, đi về phía Tây 2 ngày đến núi Cửu Châu Thạch. Lại đi về phía nam 2 ngày đến Tượng Thạch. Lại đi về phía Tây Nam 3 ngày đến núi Chiêm Bất Lao. Ở phía đông nước Hoàn Vương 200 dặm là trong biển. Lại đi về phía nam 2 ngày đến núi Lăng Sơn. Lại đi 1 ngày đến nước Môn Độc, đi một ngày nữa đến nước Cổ Đát, đi nửa ngày nữa đến châu Bôn Đà Lãng”. Dẫn theo: Nguyễn Văn Siêu: Đại Việt địa dư toàn biên, Viện Sử học và Nhà Xuất bản Văn hóa, 1997, tr.220-221.  Sách An nam chí lược của Lê Tắc biên soạn vào năm 1333, phần Các dân biên cảnh phục dịch cũng đưa ra lời bình về vị trí tự nhiên của Chiêm Thành (Champa): “Nước này ở ven biển, những thuyền buôn của Trung Hoa vượt biển đi lại với các nước ngoại phiên đều tụ ở đây, để lấy củi, nước chứa. Đấy là bến thứ nhất ở phương Nam”, theo: Lê Tắc: An Nam chí lược, Viện Đại học Huế, 1961, tr.32. Một tài liệu Trung Hoa khác là Daoyi zazhi, cho biết “đối với các tàu từ Canton tới các phiên quốc (Barbarian countries), Champa là nước gần nhất, tàu thuyền có thể tới đó trong vòng 8 ngày nếu thuận gió”; Dưới thời nhà Nguyên, Qubilai Khan đã coi Champa như là một bàn đạp để mở rộng ảnh hưởng đến vùng Nam Dương (biển Đông Nam Á) và Ấn Độ Dương; những tư liệu ấy đã chứng tỏ vị trí chiến lược của Champa trong hệ thống hải thương khu vực. Dẫn theo: Momoki Shiro: Mandala Champa Seen from Chinese Sources; trong: Tran Ky Phuong and Bruce Lockhart (Ed.): The Cham of Vietnam – History, Society and Art, NUS Press, Singapore, 2001.
[11] Xem: Momoki Shiro: Chămpa chỉ là một thể chế biển? (Những ghi chép về nông nghiệp và ngành nghề trong các tư liệu Trung Quốc), Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4 – 1999, tr.43-48.
[12] Trần Quốc Vượng: Việt Nam – Cái nhìn Địa-Văn hóa, Nxb. Văn hóa Dân tộc, H., 1998, tr.330-331.
[13] Trần Quốc Vượng: Theo dòng lịch sử – Những vùng đất, thần và tâm thức người Việt, Nxb. Văn hóa Thông tin, H., 1996, tr.536.
[14] C.Borri: Xứ Đàng Trong năm 1621, Nxb. Tp Hồ Chí Minh, 1998, tr.91.
[15] Trần Quốc Vượng: Về một nền văn hoá cảng thị ở miền Trung, Tạp chí Nghiên cứu Văn hoá Nghệ thuật, số 9, 1995.
[16] Lê Đình Phụng: Thương cảng Champa trong lịch sử, trong: Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1996Nxb. Khoa học Xã hội,H., 1997, tr.630.
[17] Lê Đình Phụng: Thương cảng Champa trong lịch sử, Sđd, tr.631.
[18] Hoàng Anh Tuấn: Cù Lao Chàm và hoạt động thương mại ở Biển Đông thời vương quốc Champa; trong: Khoa Lịch sử – Một chặng đường nghiên cứu Lịch sử (1995-2000), Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 2000, tr.124. Tuy nhiên, trong một chuyên luận của mình, chuyên gia khảo cổ học miền Trung, Lâm Mỹ Dung nêu lên một quan điểm khác cho rằng “khác với kết luận trước đây, chúng tôi cho rằng bản thân Cù Lao Chàm không phải là cảng, mà Đại Chiêm hải khẩu mới là cảng. Cù Lao Chàm trước hết là bến đậu dừng nghỉ của các thuyền và có nhiều khả năng Cù Lao Chàm là nơi trung chuyển hàng hóa xuất và nhập”. Tham khảo Lâm Mỹ Dung: Vị thế của Cù Lao Chàm trong lịch sử thương mại Việt Nam; trong: Việt Nam trong hệ thống thương mại châu Á thế kỷ XVI-XVII,Nxb. Thế giới, H., 2007, tr.101.
[19] Trần Kỳ Phương – Vũ Hữu Minh: Port of Great Champa in the IVth–XVthCenturies, trong: Ancient Town of Hoi An, The National Committee for The International Symposium on The Ancient Town of Hoi An held in Danang on 22nd– 23rd March 1990, The Gioi Publishers, H., 1991, pp.105-110.
[20] Kenneth Hall: Maritime Trade and state Development in Early Southeast Asia, University of Hawaii Press, Honolulu, 1985, pp.183.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét