Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2012

Lịch sử văn hóa Champa, phần 10

Lịch sử văn hóa Champa
 phần 10

Tháp Đôi
Tháp Đôi xây dựng vào khoảng cuối thế XII.Cùng với di tích Tháp Đôi, chúng ta ngược lên vùng “Tây Sơn hạ đạo”, để chiêm ngưỡng cụm tháp Dương Long.
Tháp Dương Long (đang phục chế)

Ngày xưa người Pháp gọi đây là “Tháp Ngà”, dân địa phương thì gọi là tháp An Chánh. Tháp Dương Long có 3 tòa tháp cổ với chiều cao từ 29 đến 36 mét. Các hệ thống cửa giả phần lớn đã bị sụp đổ, hư hỏng. Tuy vậy nhìn vào các tác phẩm điêu khắc còn sót lại giúp ta liên tưởng đến những nghệ nhân Champa đã từng dày công sáng tạo một nền văn hóa độc đáo. Nhiều nhà nghiên cứu hiện nay đã xác định niên đại của tháp vào khoảng nửa sau thế kỷ 12. Đây là cụm di tích thứ 2 được Bộ văn hóa xếp hạng cùng lúc với Tháp Đôi Quy Nhơn. Sau hai cụm Tháp Đôi và tháp Dương Long, là tháp “Cánh Tiên” và tháp “Bánh Ít”. Tháp Cánh Tiên được người Champa xây dựng ngay ở trung tâm thành Đồ Bàn, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, h.An Nhơn, tỉnh Bình Định.
Tháp Cánh Tiên.
Được biết vào tháng 11.2004 vừa qua, tháp Cánh Tiên đang được Chính phủ CHLB Đức tài trợ 100.000 Euro để trùng tu, khôi phục. Theo tài liệu của người Pháp thì tháp Cánh Tiên còn được gọi là “Tháp Đồng”, nhưng vì sao có tên gọi nầy thì vẫn chưa xác định được nguồn gốc. Tháp cao khoảng 20 mét, trông xa giống như đôi cánh của nàng tiên trong chuyện cổ tích đang bay lên trời xanh. Khác với các tháp Champa khác, tháp Cánh Tiên được xây dựng một phần bằng chất liệu đá sa thạch, xung quanh có nhiều phù điêu chạm khắc tạo cho ngôi cổ tháp một dáng vẻ độc đáo.Khác với “Cánh Tiên”, cụm tháp“Bánh Ít” có đến 4 tòa tháp lớn nhỏ khác nhau. 
Tháp Bánh Ít
Gọi là tháp Bánh Ít bởi vì khi đứng xa trông cụm tháp giống như những chiếc bánh ít lá gai-một sản vật thường thấy trong các dịp cúng lễ, giỗ chạp ở miền Trung. Người Pháp gọi đây là “Tháp Bạc”. Tất cả đều nằm trên một đỉnh đồi thuộc địa phận xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, cách TP. Quy Nhơn khoảng 20 km. Bốn ngôi cổ tháp đều có các tượng thờ, hình vũ nữ đang múa, hình voi, hình các vị thần linh. Kiểu trang trí làm cho ta có cảm giác như đang lạc vào thế giới thần bí của người Champa cổ xưa. Cũng tại Bình Định còn có tháp Bình Lâm nằm ở xã Phước Hòa (Tuy Phước).
Tháp Bình Lâm
 Người dân ở đây kể lại rằng: thôn Bình Lâm là nơi có những cư dân người Việt lần đầu tiên đến đây khai phá mở mang vùng đất phì nhiêu này. Trong hệ thống tháp Champa Bình Định, thì tháp Bình Lâm là nhóm tháp cổ có niên đại sớm nhất.Một cụm di tích khác có tên là tháp Thủ Thiện, còn gọi là “Tháp Đồng” hiện đang tồn tại ở xã Bình Nghi (Tây Sơn) nằm bên Quốc lộ 19. Năm 1995 ngọn tháp nói trên được xếp hạng di tích Nhà nước. Tuy vậy, cũng giống như các cụm di tích tháp Champa khác ở Bình Định, ngọn tháp Thủ Thiện hiện đang bị đổ nát nghiêm trọng. Nhiều di tích, cấu trúc của ngọn tháp đã bị thời gian và con người phá hủy. Di tích cuối cùng được xếp hạng cùng lúc với tháp Thủ Thiện là tháp Phú Lốc. 
Tháp Phú Lốc
Người Pháp đặt tên là “Tháp Vàng”. “Phú Lốc” nằm giáp giới giữa 2 huyện An Nhơn và Tuy Phước. Tháp nằm trên đỉnh một quả đồi cao 76 mét so với mực nước biển. Ngọn tháp đã bị đổ nát khá nhiều, tuy vậy nhìn một cách tổng quát vẫn thấy được dáng vẻ bề thế, uy nghi của một công trình kiến trúc cổ. Ngoài 7 cụm tháp ở Bình Định đã được Nhà nước xếp hạng, hiện nay vẫn còn một số di tích tháp cổ khác chỉ còn chân đế, hoặc đã bị sụp đổ do người dân đào bới tìm vàng, trong đó có tháp “Hòn Chuông” ở huyện Phù Cát. Ngôi tháp này cùng nhiều tháp Champa khác đang chờ Nhà nước trùng tu.Có thể nói rằng, 8 cụm tháp với tổng số 14 tòa tháp cổ còn lại trên đất Bình Định được xem như một loại tài sản vô giá mà lịch sử đã ban tặng cho miền Trung nước ta. Những bí ẩn về tháp Champa mặc dù đã được tìm hiểu nghiên cứu từ cả chục năm nay, tuy vậy cũng chỉ là những nghiên cứu bên ngoài. Chúng ta tin rằng còn khá nhiều điều kỳ lạ, nhiều huyền thoại lý thú cần làm sáng tỏ. 
Lịch sử xây dựng tháp Champa
Lịch sử xây dựng các đền tháp Champa kéo dài từ cuối thế kỷ thứ 7 đến đầu thế kỷ 17. Trong khoảng thời gian này, những người Champa xưa đã để lại một số lượng lớn các công trình kiến trúc đền tháp, thành luỹ, các tác phẩm điêu khắc. Hiện tại có trên hai mươi cụm di tích kiến trúc đền tháp và rất nhiều phế tích kiến trúc. Các di tích này có giá trị đặc sắc, mang tính toàn cầu, xứng đáng nhận được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Một trong những sự quan tâm ấy là việc tổ chức UNESCO đã công nhận Mỹ Sơn là di sản văn hoá thế giới cũng chính là việc đánh giá cao thành quả nghiên cứu về kiến trúc Champa nói chung. 
Theo tiếng Chăm, các đến tháp Champa này được gọi là kalan, nghĩa là "lăng". Các lăng này được các đời vua Chăm xây dựng để thờ cúng các vị thần. Các vị thần được thờ phượng có thể là các vị thần Ấn Độ giáo tiêu biểu như Siva (thần hủy diệt), Ganesha (phúc thần đầu người mình voi)... hoặc đấy còn có thể là các vị Phật. Điều này tùy thuộc vào lòng tin và kính mộ của mỗi vì vua ở các triều đại khác nhau. Ở thánh địa Mỹ Sơn hiện nay phần lớn là công trình kiến trúc tôn giáo thờ các vị thần thuộc Ấn Độ giáo và Bà la môn giáo. Nhưng ở thánh địa Đồng Dương (thuộc địa phận huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam) đây là kinh đô Phật giáo lớn nhất của Champa.Sự giao thoa văn hoá Champa - Đại Việt:Trong lĩnh vực văn hoá vật thể thì nghệ thuật Champa cổ và nghệ thuật Việt cổ có nhiều nét tương đồng. Nhìn chung thì nghệ thuật Champa có trước nghệ thuật Việt và đã đạt đỉnh cao ngay khi nghệ thuật Việt độc lập chưa ra đời.Xét về mặt kiến trúc: các tháp Champa hầu hết ở trên những đồi cao hoặc núi thấp, được xây dựng thành từng cụm, hướng Đông nhìn ra biển đón dương khí thì chùa, tháp Việt Nam thời Lý, thời Trần cũng thường xây dựng trên gò, đồi và sườn núi, tạo nên cả một quần thể, hướng Nam hoặc Nam chếch Đông, đón dương khí. Tháp Việt Nam cũng vươn cao với nhiều tầng như tháp Champa và có bình diện vuông gần với các phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Tháp Champa cũng như tháp Lý - Trần về cơ bản cũng xây bằng gạch hoặc phụ thêm một số thành phần bằng đá. Có điều, tháp Champa được đục trực tiếp trên gạch sau khi xây, còn ở tháp Lý - Trần thì hình trang trí được in, khắc trực tiếp trên gạch, rồi sau đó mới mang nung, xây đến đâu là có hình trang trí cho chỗ đó rồi.Phổ biến và cũng hấp dẫn nhất trong nghệ thuật Champa là các apsara, đa số thuộc đỉnh cao của điêu khắc Champa thuộc thế kỷ thứ 10. Các nhân vật kết hợp người với chim hoặc với thú đều có cả trong nghệ thuật Champa và nghệ thuật Việtcác phong cách kiến trúc Champa-Phong cách Hoà Lai và phong cách Đồng Dương (thế kỷ thứ 9). Những ngôi đền tháp theo hai phong cách này có những hàng cột ốp và những cửa vòm khoẻ khoắn. Những băng trang trí cho công trình có rất nhiều họa tiết. Yếu tố tiêu biểu nhất cho phong cách Hoà Lai (nửa đầu thế kỷ thứ 9) là các vòm cửa nhiều mũi tròn trùm lên các cửa thật, cửa giả và các khám. Các cột ở khung cửa hình bát giác bằng sa thạch được trang trí bằng một đường các hình lá uốn cong. Khoảng giữa hai cột trụ ốp có trang trí hình thực vật. Ở bên dưới các cột trụ ốp là các hình kiến trúc thu nhỏ trong đó có hình người đắp nổi. Tất cả tạo cho các tháp Hoà Lai một vẻ đẹp trang trọng và tươi mát. Còn ở phong cách Đồng Dương (nửa sau thế kỷ thứ 9) thì các trang trí cây lá được biến thành những hình hoa hướng ra ngoài. Cái nhận thức cổ điển của nét lượn và tỷ lệ ở phong cách Hoà Lai đã bị biến mất và các tháp Đồng Dương trở nên mạnh mẽ hơn.-Phong cách Mỹ Sơn A1 (thế kỷ thứ 10)Phong cách này thể hiện đầy đủ nhất, trọn vẹn nhất là ở ngôi tháp Mỹ Sơn A1. Những cột ốp trên mặt tường đứng thành đôi một. Đứng giữa hai cột ốp là các bức tượng người. Các vòm cửa có hình dáng phức tạp nhưng không chạm khắc gì. Bộ diềm kép, các hình đá trang trí góc được khoét thủng. Thân chính của tháp được xây dựng có hình dáng cao vút lên và các tầng thu nhỏ dần lại. Những đặc trưng của phong cách Hoà Lai và Đồng Dương không còn thấy ở các tháp thuộc phong cách Mỹ Sơn A1.-Phong cách Bình Định (thế kỷ 11-13)Sau hàng loạt những biến động về chính trị từ đầu thế kỷ 11, trung tâm chính trị của Champa được chuyển vào Bình Định và từ đó, phong cách nghệ thuật tháp Champa mới đã xuất hiện: phong cách Bình Định. Nếu như ngôn ngữ nghệ thuật chính của các tháp Champa thuộc phong cách trước là thành phần kiến trúc đều đi vào đường nét thì ở phong cách này đó lại là mảng khối: vòm cửa thu lại và vút lên thành hình mũi giáo, các tháp nhỏ trên các tầng cuộn lại thành các khối đậm, khỏe, các trụ ốp thu vào thành một khối phẳng, mặt tường có các gân sống. 
Nếu xuất phát từ Tp.Quy Nhơn, du khách sẽ gặp Tháp Đôi ngay trong lòng thành phố, bên bờ đầm Thị Nại, sở dĩ gọi tên như vậy vì có hai tháp đứng cạnh nhau, sừng sững giữa trời xanh, như người ta “có cặp có đôi” vậy. Cách Tp.Quy Nhơn khoảng 30km, thuộc địa phận huyện Tuy Phước, sát ngã ba QL 19 và QL 1, là quần thể tháp Bánh Ít, gồm 4 tháp lớn nhỏ được xây trên một ngọn núi, soi bóng xuống dòng sông Kôn. Ở tháp Bánh Ít là những kiến trúc duyên dáng, đặc biệt là tháp có hình yên ngựa. Tiếp tục đi ra hướng bắc là tháp Phú Lốc và tháp Cánh Tiên, hai ngọn tháp này cũng được xây trên những ngọn đồi cao, từ QL 1 nhìn lên đều trông thấy. Tháp Cánh Tiên nằm trong khuôn viên thành Đồ Bàn, vào buổi chiều, nhìn từ xa, các góc mái của tháp như đôi cánh của các cô tiên nhảy múa trong sắc đỏ hoàng hôn. Tiếp tục đi về phía biển, du khách sẽ bắt gặp tháp Bình Lâm (nay thuộc huyện Tuy Phước) và một tháp chưa được khám phá trên núi Bà (Phù Cát, Bình Định). Từ tháp Bánh Ít, theo QL 19 lên Tây Sơn, chiêm ngưỡng tháp Thủ Thiện ở bên này và Tháp Dương Long ở bên kia sông Kôn. 

Điều đặc biệt, hầu như các tháp Chămpa đều được xây dựng bên những dòng sông. Theo TS. Lê Đình Phụng: Tháp Dương Long được coi là kiến trúc gạch cao nhất Đông Nam Á. Đến bên tháp, du khách sẽ cảm nhận được sự to lớn, vĩ đại và tưởng như những công trình kiến trúc này không phải do bàn tay lao động tài hoa của các nghệ nhân Chămpa xưa mà là của các vị thần, của trời xanh, như một lần nhạc sĩ, nhà thơ Văn Cao ghé thăm Bình Định, thăm các tháp Chămpa từng có câu thơ:Từ trời xanh rơi vài giọt tháp Chàm…

TÂY NGUYÊN: THÁP YANG PRONG
Cách thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 100km về phía tây, tháp Yang Prong nằm ở xã Ea Rốk, huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk là ngọn tháp Chăm duy nhất trên mảnh đất Tây Nguyên, thường được gọi là “Thần vĩ đại”, có giá trị lịch sử với lối kiến trúc độc đáo. Tuy nhiên sau gần 20 năm đón nhận danh hiệu di tích kiến trúc cấp quốc gia, ngọn tháp này đang xuống cấp nghiêm trọng bởi sự tàn phá của thời gian và bàn tay con người.Tháp Yang Prong bị “bỏ rơi” giữa rừng già mặc thời gian, con người tàn phá Từ trung tâm thành phố, chúng tôi vượt qua những cung đường mấp mô sỏi đá đến xã Ea Rốk. Cách khu du lịch Buôn Đôn không xa và cũng là điểm đến hấp dẫn du khách nhưng cơ sở hạ tầng, đường sá để vào tháp Yang Prong quá tệ, những tay xe ôm chuyên nghiệp kiếm ra tiền nhờ cung đường này đều lắc đầu ngán ngẩm. Anh Nguyễn Trung, một du khách TPHCM đam mê khám phá núi rừng Tây Nguyên cùng đi với tôi than thở: “Làm du lịch mà đường sá như thế ai mà dám tới. Nghe bạn bè kể tháp đẹp lắm nên tôi mới dò dẫm lên đây, nhưng thật tình đi vầy oải lắm!”.

Từ xa nhìn lại, tháp Yang Prong huyền bí được khu rừng cổ thụ bao bọc, những tán cây xòe rộng che mát cả di tích. Cảm giác đầu tiên nhiều người đến đây phải thốt lên là ngọn tháp có vị trí tuyệt đẹp, khung cảnh hoang sơ, thiên nhiên vẫn còn nguyên không như những ngôi tháp Chăm ở các tỉnh khác. Tháp Yang Prong được phát hiện vào những năm đầu thế kỷ XX bởi nhà dân tộc học người Pháp tên Henri Maitre. Nhà khoa học này đã khảo tả về xây dựng tháp trong cuốn sách Les Jungles Moi tương đối chi tiết. Căn cứ chất liệu, kiến trúc và đặc biệt là những dòng ký tự cổ, các nhà khoa học đều khẳng định tháp được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XIII, thời kỳ phát triển cực thịnh của người Chăm trên Tây Nguyên, cách nay hơn 700 năm.
Theo tiếng cư dân địa phương thì Yang có nghĩa là “thần”, Prong là “chức vụ cao nhất”, vì vậy Yang Prong được hiểu là “Thần tối cao”, “Thần vĩ đại”. Tháp có lối kiến trúc hình vuông, xây bằng gạch, nhưng điều kỳ lạ là người ta không tìm thấy mạch vữa hay chất liệu kết dính nào giữa các lớp gạch này. Tháp cao 9m, mỗi mặt tường rộng 5m, diện tích lòng tháp khoảng 5m2, tháp có một cửa ra vào duy nhất mở về hướng đông, ba mặt tường còn lại đều có cửa giả. Chóp tháp được tạo thành bởi các lớp gạch xếp chồng lên nhau thu nhỏ dần; nền tháp làm bằng những phiến đá xanh mài nhẵn với nhiều kích cỡ.
Đôi nét về người Chăm ở Ninh Thuận  
1-Dân số, tôn giáo và địa bàn cư trú.  Trừ các tôn giáo mới du nhập sau này với số lượng không lớn, người Chăm ở Ninh Thuận hiện nay theo hai tôn giáo chính là Bàlamôn (ấn Độ giáo) và Bàni (Hồi giáo bản địa hóa). Ngoài ra còn có một bộ phận người Chăm theo đạo Islam nhưng không nhiều. Tên gọi thì như vậy, nhưng, đã từ lâu, hai tôn giáo Bàlamôn và Bàni tồn tại độc lập, không có mối quan hệ với nước ngoài và, qua quá trình lịch sử, cả hai tôn giáo này đã bị bản địa hóa, tạo cho mình một kiểu tôn giáo địa phương. Người Chăm theo đạo Bàlamôn có khoảng 38.000 người, cư trú ở 16 làng, trong đó có một làng sống xen cả Bàlamôn lẫn Bàni (làng Phú Nhuận). Người Chăm theo đạo Bàni có khoảng 21.000 người, cư trú ở 7 làng, trong đó có một số làng sống xen cả  người Chăm theo Bàni và người Chăm theo Islam. Người Chăm theo Hồi giáo mới (Islam) có khoảng 2.000 người, theo Công giáo và Tin lành khoảng 700 người. Qua quá trình điền dã, nghiên cứu, chúng tôi thấy bản thân người Chăm ở Ninh Thuận không tự gọi là người Chăm theo đạo Bàlamôn hay đạo Bàni mà tự gọi người Chăm Bàlamôn là Ahier, người Chăm Bà ni là awal. Trong dân gian thường gọi người theo Bàlamôn là “Chăm”, người Chăm theo Hồi giáo cũ là Bìnì (Bàni), trong văn học dân gian Chăm có trường ca “Cam – Bini” và trường ca “Bini – Cam”. Về vấn đề tên gọi thế nào cho đúng đối với người Chăm Bàlamôn là một vấn đề khoa học cần được tiếp tục nghiên cứu kỹ. Theo chúng tôi, nếu đã gọi người Chăm theo Hồi giáo bị bản địa hóa là Bàni, có nghĩa là Hồi giáo du nhập vào trong cộng đồng người Chăm từ sau thế kỷ X, đã biến thành một thứ tôn giáo địa phương thì phải gọi người Chăm theo đạo Bàlamôn là “Chăm Ahier” mới đúng. Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng, đạo Bàlamôn có nguồn gốc ấn Độ đã thực sự trở thành một thứ tôn giáo địa phương. Tuy nhiên, các tài liệu khoa học từ xưa đến nay đều gọi là người Chăm Ahier là người Chăm Bàlamôn.  

2-Người Chăm Bàlàmôn ở Ninh Thuận  Gần 38.000 người Chăm Bàlamôn sống tập trung ở 16 làng, chủ yếu là ở huyện Ninh Phước và chia theo 3 khu vực đền tháp thờ tự, được phân chia theo khu vực cộng đồng tôn giáo. Mỗi khu vực cộng đồng tôn giáo lại có hệ thống chức sắc chịu trách nhiệm về cộng đồng tín đồ của khu vực mình cai quản. Hiện nay ở Ninh Thuận có 3 vị cả sư pô xà (Pô dhia – chữ Pô: ngài, thần, vị, đấng) phụ trách 3 khu vực cộng đồng tín đồ và chịu trách nhiệm cúng lễ ở 3 khu vực đền tháp như sau: + Khu vực tháp Pôrômê (Pô Rame – làng Hậu Sanh) có 6 làng thuộc huyện Ninh Phước gồm: Hậu Sanh, Hiếu Thiện, Vụ Bổn, Mỹ Nghiệp, Chung Mỹ, Phước Lập, khu vực này do cả sư pô xà Hán Bằng phụ trách. + Khu vực đền thờ “mẹ xứ sở” Pô Inư Nưgar (Pô Inư Nưgar – Inư là mẹ, mẫu, Nưgar là xứ sở – ở làng Hữu Đức) gồm 3 làng Hữu Đức, Như Bình và Bầu Trúc, do cả sư  pô xà Hải Quý phụ trách. + Khu vực tháp Pô Klongirai (Pô Klongirai – Phan Rang) có 7 làng gồm: Hiếu Lễ, Chắt Thường, Phú Nhuận, Hoài Trung, Phước Đồng và Thành ý do cả sư (Pô xà) Vạn Tạ phụ trách. Ngoài ra, còn một khu vực đền Pô Bin Thuôn (Pô Bin Thuơr – thôn Bĩnh Nghĩa, xã Phương Hải, huyện Ninh Hải) chỉ có một làng người Chăm theo Bàlàmôn nhưng không có chức sắc Bàlamôn. Mọi hoạt động tôn giáo đều do Ban phong tục của làng đảm nhiệm. Mỗi khi có những nghi lễ cần đến chức sắc Bàlamôn làm chủ lễ đều phải mời các chức sắc từ khu vực tháp Pôklongirai. Vì vậy, có thể quy Bĩnh Nghĩa về khu vực tôn giáo của Tháp Pôklongirai (xem bản đồ phụ lục 3). Người Chăm ở Ninh Thuận còn gọi những người theo đạo Bàlamôn là “CamJat”(đọc là Chăm rặt). Trong tiếng Chăm, chữ Jat có nghĩa là gốc, sự thật [1, tr.219]. Người Chăm còn gọi người Chăm theo Bàlamôn là “Chăm” (Cam, để phân biệt với Bà Ni), và coi Chăm Jat là Chăm gốc. Bàlamôn giáo du nhập vào Champa rất sớm, trư­ớc khi lập vư­ơng quốc Lâm ấp, muộn nhất là đầu công nguyên và có thể còn trước đó nữa. Bốn bia ký bằng chữ Phạn có niên đại thế kỷ VII đ­ược tìm thấy ở Quảng Nam và Phú Yên ở triều đại Bhadresvaravamin, ba trong bốn bia ký đó ghi nhận lãnh địa dành cho vị thần này. Còn bia ký Mỹ Sơn thì nói đến sự thành kính dành cho Mahesvara, Uma, Brahma, Vishnu. Đến thế kỷ thứ VII, ấn Độ giáo mà chủ yếu là Shiva giáo đã trở thành tôn giáo chính thống. Từ đây hình thành khu di tích Mỹ Sơn. Từ thời Lâm ấp đến Hoàn V­ương (từ thế kỷ II đến thế kỷ IX), đạo Bàlamôn đã hiện diện và luôn luôn đ­ược coi trọng. Các bia ký giai đoạn này đều chứng minh tầm quan trọng của Shiva: “Đáng kính trọng hơn cả Brahma, Vishnu, Indra, Surya, Asura, hơn những vị Bàlamôn và hơn những Rsi, các vua chúa” [2, tr.72]. Theo nhiều nhà nghiên cứu Champa thì Bàlamôn giáo đã đến Champa trước cả Phật giáo. Sử gia D.Hall có nhận xét như­ sau về tôn giáo vào Champa: Bàlamôn giáo là tôn giáo của giai cấp quý tộc, nên không thu được lớp bình dân đại chúng. Tập quán bản xứ vẫn tiếp tục phát triển song song với tập quán ấn Độ. Mãi đến mấy thế kỷ sau, khi Phật giáo tiểu thừa Theravada và Hồi giáo nhập địa và được truyền bá như­ một tôn giáo bình dân, những ảnh hưởng ngoại lai này mới thật sự va chạm với nếp sống người dân quê. Đến khi ấy, cả hai tôn giáo mới hoà mình vào nền văn hóa bản xứ rồi biến thể sâu đậm… [dẫn theo 3, tr. 110]. Khi Hồi giáo du nhập vào Champa (khoảng trư­ớc sau thế kỷ X), xảy ra quá trình cạnh tranh và xung đột tôn giáo, gây mất ổn định trong một thời gian dài giữa nội bộ cộng đồng tộc người Chăm. Người Chăm theo Hồi giáo Bàni bị coi là người ngoài, thậm chí người Chăm cho rằng, thà kết hôn với người khác dân tộc còn hơn là kết hôn với ngư­ời Bàni. Có lẽ vì thế mà ngư­ời Chăm Bàlamôn tự gọi là “Chăm”. Sự xung đột tôn giáo kéo dài này đã kìm hãm sự phát triển, ảnh hưởng không nhỏ đến thế lực của Champa.  Để dung hoà và đoàn kết hai tôn giáo, không rõ từ bao giờ và do ai khởi xướng, người Chăm đã vận dụng quan niệm “nhất thể lưỡng hợp”, coi cộng đồng ng­ười Chăm theo Bàlamôn là dư­ơng tính (Ahier), theo Bàni là âm tính (Awal). Với quan niệm nhất thể lưỡng hợp thì ngư­ời theo hai tôn giáo này tuy hai nh­ưng là một, gắn bó với nhau, trong âm có dư­ơng và trong dương có âm. Quan niệm này được nhất quán trong nội dung cũng như hình thức nghi lễ, trong cả trang phục các vị chức sắc của hai tôn giáo. Người Chăm Bàlamôn theo tín ng­ưỡng đa thần của ấn Độ giáo, còn người Chăm Bàni thờ nhất thần là thánh Ala, người Chăm gọi là Pô Âu Loá và thiên sứ Môhamét. Tuy nhiên, ngư­ời Chăm Bàni ngày nay đã thờ những vị thần chung của cả cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận như­ mẹ xứ sở Pô In­ư Nưgar, Pô Yang – Amư  và các vị nhân thần Chăm. Người Chăm Bàlamôn ngày nay sinh sống ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Ngoài 38.000 người Chăm ở Ninh Thuận, hiện còn có một bộ phận khoảng 15.000 người sống ở huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Về cơ bản, văn hóa của họ tương đồng với văn hóa của người Chăm Bàlamôn ở Ninh Thuận. 
3- Hệ thống chủ lễ trong các nghi lễ của người Chăm Bàlàmôn
Văn hóa truyền thống của người Chăm chứa đựng nhiều tầng lớp, trong đó có những lớp văn hóa mang truyền thống bản địa của cư dân nông nghiệp lúa nước Đông Nam á và về sau, người Chăm tiếp nhận các tôn giáo. Trải qua quá trình bản địa hóa, những lớp văn hóa này đã hòa trộn vào nhau và trở thành văn hóa truyền thống chung của người Chăm. Đối với người Chăm Bàlàmôn, theo chúng tôi, mặc dù đã có một quá trình bản địa hóa lâu đời, không còn đậm giáo lý, giáo luật, hệ thống thần linh cũng đã “thay tên đổi họ” nhưng dấu ấn Bàlamôn giáo vẫn còn khá đậm trong lễ nghi tín ngưỡng của người Chăm Bàlàmôn, trong đó có hệ thống chủ lễ, bao gồm các thầy chủ lễ dân gian và hệ thống chức sắc, tăng lữ Pà xế. Theo thống kê của Trung tâm nghiên cứu văn hóa Chăm tỉnh Ninh Thuận, hiện nay ngư­ời Chăm có hơn một trăm nghi lễ được tổ chức quanh năm. Hệ thống nghi lễ ấy diễn ra vừa phong phú vừa phức tạp. Trong đó, các thầy chủ lễ dân gian và hệ thống chức sắc tôn giáo đóng một vài trò quan trọng. Hệ thống lễ hội dân gian của người Chăm Bàlàmôn rất phong phú, đa dạng. Trong các nghi lễ Chăm đều có sự pha trộn giữa lễ thức dân gian và nghi lễ tôn giáo. Vì vậy, hệ thống chủ lễ cũng có sự pha trộn, nhiều khi rất khó phân biệt: trong một số nghi thức mang tính tôn giáo lại có sự tham gia của các chức sắc dân gian, trong một số lễ thức dân gian lại có sự tham gia của chức sắc tôn giáo. 
4- Các “thầy” chủ lễ dân gian 
Khác với chức sắc tôn giáo, các thầy chủ lễ dân gian là những ngư­ời không chịu sự chi phối của tôn giáo. Để trở thành những chủ lễ dân gian đều phải trải qua lễ tôn chức. Trong những nghi lễ thuộc tín ngư­ỡng nông nghiệp, ngoài sự tham gia điều hành của các chức sắc tôn giáo phải có các ông thầy dân gian như­ ông cai đập (Hamu la). Trong hệ thống lễ hội Rija phải có sự tham gia của các ông “thầy vỗ” chuyên đánh trống paranư­ng (Mưduôn), thầy bóng múa lên đồng (On kaingphụ lục ảnh 18), bà bóng dòng tộc đồng thời là ngư­ời giữ “chiết a tâu” của dòng họ, bà bóng khu vực tôn giáo. Mỗi dòng họ đều phải có bà bóng cho riêng mình. Bà bóng dòng họ được tuyển chọn kỹ l­ưỡng, phải là người có địa vị, có hiểu biết, đư­ợc vị nể trong dòng họ. Lễ tôn chức bà bóng thường được kết hợp trong lễ múa lớn (Rija praung), được thể hiện rõ nhất trong đêm khai lễ “Rija xoa”, bà bóng phải chịu lễ tẩy uế, nằm để hóa thân, đầu thai và nhập linh suốt đêm. Trong lễ này, bà bóng phải “học” múa (học tượng trư­ng, thực chất là đã phải học các điệu múa bóng từ trư­ớc) do một ông thầy và bà bóng cũ chỉ bảo. Trong các nghi lễ cúng cầu phúc, trừ tà ma, chữa bệnh và trong nghi lễ tang ma v.v… phải có ông thầy pháp (Gru tiap bhut) hoặc ông thầy cúng (Gru urang). Các ông thầy này phải học thuộc hệ thống ma thuật bùa chú và văn tế tự rất phức tạp và có một cuộc sống kiêng cữ rất nghiêm ngặt, có thầy còn tu khổ hạnh hơn cả các chức sắc tôn giáo. Họ được bà con Chăm kính trọng, vị nể, nhiều ông thầy rất “cao tay ấn”. Trong các thầy chủ lễ dân gian, có một đội ngũ nghệ nhân tài giỏi và đều có mặt trong các nghi lễ Chăm. Ông “thầy vỗ” (Mư­duôn – đọc là mư­ tùn) vừa đánh trống Paranư­ng vừa hát lễ, ông kéo đàn Kanhi (Kadhar – đọc là ka thành) và những ngư­ời hát lễ, nghệ nhân đánh trống ghi năng (On Toong- grù ginơn), nghệ nhân thổi kèn Saranai (On Yu). Trong lễ tang phải có ông “hăng” (On Hơng), là người trang trí các nhà lễ, nhà hoả táng và các hoa văn, biểu tượng, bùa chú cho tín ngưỡng dân gian. Theo số liệu thống kê của Trung tâm nghiên cứu văn hóa Chăm Ninh Thuận, hiện nay ở Ninh Thuận có 22 thầy cúng đuổi tà ma (Gru tiap bhut, gru urang), 13 thầy kéo đàn kanhi, 9 thầy bóng, 3 bà bóng khu vực tôn giáo (Muk pajau), 36 “thầy vỗ” trống Paranưng. Ngoài ra, mỗi dòng tộc lại có một bà bóng (Muk Rija) cho riêng dòng họ mình. Trong lễ nhập kút, ông kéo đàn kanhi và bà bóng (Muk pajau) luôn đi cặp với nhau, như­ là một biểu hiện âm – dư­ơng. Ông kéo đàn và bà bóng có hai cấp trư­ởng và thứ. Một số thầy chủ lễ dân gian phải trải qua các lễ thụ chức như­ ông kéo đàn chính (Kadhar gru – là ngư­ời đã phải trải qua lễ “lăng đao” trong nghi lễ “tế trâu đen” của dòng tộc). Bà bóng cấp trưởng cũng phải qua lễ chém trâu và phải qua các nghi thức tẩy uế, nhập linh trong lễ Rija. Tất cả các chức sắc dân gian, mỗi năm phải hiến tế cho thần Pô âu Loá (Ppo aw loa) một con gà trắng. Chủ lễ hiến tế phải là một chức sắc Bàni.
5- Hệ thống chức sắc Bàlamôn  Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tôn giáo Bàlamôn hiện nay ở người Chăm không còn hội đủ những yếu tố của một tôn giáo chính thống, hệ thống giáo lý, giáo luật, hệ thống giáo chủ và tín đồ không rõ ràng và ng­ười Chăm theo đạo Bàlàmôn không tự gọi mình là ng­ười Chăm Bàlamôn mà gọi là Chăm Ahiêr. Nhưng, mặc dù đã bị bản địa hóa khá mạnh, chức sắc, tăng lữ Bàlamôn và nhiệm vụ của họ vẫn được duy trì một cách có hệ thống. Trong Bàlamôn giáo: “đẳng cấp Bàlamôn là đẳng cấp cao nhất, được sinh ra từ miệng Sanura (Manu) “Bàlamôn được coi là thần trên mặt đất”, chủ trì chăm lo việc cúng bái, thao túng đời sống tinh thần thời cổ đại và trung thế kỷ” [5, tr.193]. Hiện nay, các tăng lữ pà xế (passeh) vẫn nắm giữ phần hồn của cộng đồng người Chăm Bàlamôn. Xã hội Bàlamôn vốn là xã hội phân biệt đẳng cấp, được hình thành nên để bảo vệ cho quyền lợi của đẳng cấp tu sĩ Bàlamôn. Trong xã hội của người Chăm Bàlamôn hiện nay, tuy sự phân biệt đẳng cấp đã bị phai mờ như­ng qua nghiên cứu nghi lễ tang ma của người Chăm Bàlàmôn, chúng tôi thấy sự phân biệt ấy vẫn tồn tại. Đó là sự phân biệt đẳng cấp theo dòng tộc. Một dòng tộc trư­ớc đây thuộc đẳng cấp nào thì nay vẫn bị quy định nghi lễ tang ma theo hình thức của đẳng cấp đó. Đẳng cấp cao nhất vẫn là đẳng cấp của tăng lữ Bàlamôn. Cơ cấu và thiết chế xã hội Champa trư­ớc đây đã từng chi phối bốn tầng lớp xã hội theo giáo lý Bàlamôn. Theo lời văn bia Mỹ Sơn thì dư­ới đời vua Jaya Indravarman (1088) xã hội Chăm có bốn đẳng cấp theo hệ thống đẳng cấp Bàlamôn ấn Độ [6, tr. 54-55] như sau:. 
 -Brahman:Tầng lớp tu sĩ, tăng lữ Bàlamôn
-Ksyattriya:Tầng lớp quý tộc, vương phái, võ sỹ.
-Vaicya:Tầng lớp bình dân.Sudra: Cùng đinh, nô lệ.Ngày nay, trong xã hội Champa vẫn còn phân biệt các đẳng cấp như trên nhưng tên gọi có khác.
-Đẳng cấp tu sỹ Bàlamôn:Halơw jăn­ưng
-Đẳng cấp quý tộc:Takai gai.
- Đẳng cấp bình dân:Bal liwa pănliua, kuliT
-Đẳng cấp nô lệ, tôi tớ:Halun halăk, halun klor.
Trong hệ thống chức sắc Bàlamôn có hai tầng lớp, hệ thống các chức sắc tu sỹ pà xế (passeh) và các chức sắc dân gian. Tu sĩ pà xế là những chức sắc tôn giáo Bàlamôn. Tầng lớp này có địa vị cao nhất trong xã hội, được coi là những người trí thức, họ biết chữ Chăm, lưu giữ các sách cổ Chăm qui định về các nghi thức hành lễ, hiểu biết tập tục, truyền bá và thực hiện các nghi thức tôn giáo. Về mặt xã hội, họ thuộc tầng lớp quí tộc cũ. Tu sĩ pà xế đ­ược duy trì trong xã hội Chăm theo tục “cha truyền con nối”. Những người không thuộc dòng dõi chức sắc thì dù có giỏi mấy cũng không đư­ợc vào hàng ngũ này. Đây là một dấu ấn đậm nét của giáo lý Bàlamôn cổ đại ấn Độ còn đọng lại trong cộng đồng ngư­ời Chăm Bàlamôn ở Ninh Thuận. Hệ thống tu sĩ pà xế được sắp xếp theo 5 cấp từ thấp đến cao như­ sau: Cấp thấp nhất là thầy passeh Đung akau. Đây là chức sắc mới nhập môn, phải học chữ Chăm, học các giáo lý, giáo luật và bắt đầu để tóc dài, búi tó.Cấp thứ hai là thầy passeh Liah. Là thầy pà xế khi hội đủ điều kiện được làm lễ phong chức từ  passeh Đung a kau lên.Cấp thứ ba là passeh Pahuăh (Pahóa – thầy cho ăn), được làm lễ phong chức từ passeh Liah lên, phải là người có thâm niên, và là người duy nhất đư­ợc làm “lễ cho ăn” trong tang ma.Cấp thứ tư­ là thầy passeh Tapah. Đây là những tu sĩ đã đạt đến độ thoát tục, phải qua những điều kiện rất khắt khe mới được phong chức và phải trải qua ba giai đoạn: Tapahkatat, Tapahkađa và Tapahkađôi. (Đây là chức danh phó cả sư­. Khi chọn ngư­ời để phong chức cả sư, trư­ớc hết phải chọn Tapahkađôi).Cao nhất là chức cả sư­ Podhia (Pôxà). Đây là người có quyền tối cao trong tôn giáo Bàlamôn. ở tỉnh Ninh Thuận chia làm ba khu vực tôn giáo Bàlamôn nên bao giờ cũng chỉ có ba thầy Pôxà. Các vị cả sư­ cho biết, trước đây, tuy chia ba khu vực tôn giáo nhưng vị cả sư­ của khu vực tháp Pô Klongirai là lớn nhất, gọi là cả sư Grù Hunh (thuộc dương), là ngư­ời quyết định các lễ phong chức pà xế, ông thầy Grù Hunh không được trực tiếp đi làm các chủ lễ mà chỉ ở nhà tu hạnh và chỉ đạo, là ngư­ời quyết định ngày tháng, giờ giấc và quy trình làm lễ. Ông cả sư­ khu vực đền Pô In­ Nư­gar gọi là Grù Băng xài (thuộc âm) là ngư­ời do ông Grù hunh phân công thực hiện các nghi lễ, trừ lễ nhập kút. Ông cả sư khu vực tháp Pô Rômê gọi là Grù Atằm, là ngư­ời đư­ợc làm chủ các lễ nhập kút. Như­ng ngày nay, những quy định trên đây không còn hiệu lực nữa.Để nhập vào hàng ngũ pà xế và lên đến chức cả sư­, phải thực hiện đủ các lễ tôn chức như sau:-Lễ nhập đạo (dung akau), gọi là lễ xông miệng học chữ Chăm.-Lễ lên cấp pà xế liah, giai đoạn học kinh kệ và học các nghi thức hành lễ.-Lễ tôn chức tu sĩ chính thức (puah)-Lễ tôn chức cả sư hoặc phó cả sư­ (popaik hoặc podhia).Hiện nay, đến các làng Chăm Bàlamôn có thể nhận biết được đội ngũ chức sắc pà xế. Bởi vì họ luôn phải mang trang phục chức sắc của mình và từ thầy passeh Pahuăh trở lên đi đâu cũng mang theo cây gậy thần. Trang phục và đồ trang sức của các thầy khác nhau theo từng cấp pà xế, nh­ưng có những điểm chung là tóc dài búi tó, vì trong quan niệm âm – dương Chăm, tôn giáo Bàlamôn là Ahier thuộc d­ương, nhưng theo thuyết trong dương có âm, các thầy pà xế vừa là đàn bà (để tóc), lại đeo biểu tư­ợng của đàn ông (dương). Tôn giáo Bàni là Awal thuộc âm nhưng ông thầy Char lại cạo trọc đầu và đeo biểu tư­ợng yoni (âm). Trên đầu các chức sắc Bàni luôn đội nón bọc vải màu trắng, có vành rộng tượng trư­ng cho bầu trời, không bao giờ đi giầy, chỉ đi dép nhựa hoặc đi chân đất. Ngày x­a các thầy thường đi loại dép cổ làm bằng da trâu. Tu sĩ pà xế Bàlamôn được quyền lấy vợ, sinh con như­ng phải tuân thủ theo những quy tắc rất khắt khe. Để tu hành, các thầy phải kiêng cữ rất nhiều thứ: 
-Không được ăn thịt những con vật đẻ ra con.
-Không ăn thịt những con vật gắn với truyền thuyết, truyện cổ Champa và tín ngư­ỡng thờ súc vật như­ lư­ơn, ếch, giông, cá trê, thỏ, hoẵng, không ăn những con vật chết yểu, chết do bị thương, không được ăn những loại hoa quả như chuối hột, đu đủ, đậu hạt, quả sung, bí đao, rau sam, rau dền.
- Không uống các loại nước có chất lên men, khi đang hành lễ cũng chỉ được uống rượu tư­ợng trư­ng.
-Không đư­ợc đến dự các nghi lễ thuộc “cõi sống” như­ lễ sinh đẻ, lễ cưới, lễ múa (Rija). -Khi đi tiểu tiện phải vén váy ngồi xổm như đàn bà (bởi các thầy thuộc âm), khi đi đại tiện phải cởi áo trùm đầu. 

– Đi tắm phải xem ngày. Ngày rằm, mồng một theo âm lịch, ngày thứ hai, thứ sáu trong tuần không được ngủ với vợ. Trư­ớc khi ăn, trư­ớc khi ngủ đều phải đọc kinh.
– Khi ngủ không được quay đầu hư­ớng nam vì ngư­ời Chăm Bàlamôn coi hướng nam là “hướng chết” nên khi có ngư­ời chết phải đặt thi hài người chết quay đầu hướng nam. Ngược lại, các chức sắc Hồi giáo Bàni kiêng không quay đầu hướng bắc. Ngoài ra, các thầy pà xế còn phải kiêng cữ rất nhiều ở những lĩnh vực khác. Trong phòng ở của các thầy luôn có chiết (giỏ) đựng rất nhiều các sách viết bằng chữ Chăm cổ h­ướng dẫn các qui trình hành lễ, các bài văn khấn, hình vẽ các bùa, các câu thần chú và bàn tổ cúng thần. Mỗi lần hành lễ, phải làm lễ cúng hạ chiết sách. Tu sỹ pà xế mặc sắc phục riêng màu trắng, búi tóc ở đỉnh đầu. Sự phân biệt các cấp pà xế dựa vào hoa văn thổ cẩm đính trên váy và khăn. Hiện nay tu sỹ pà xế ở cộng đồng Chăm Bàlamôn có 37 vị. Trong đó có ba vị cả sư pô xà cai quản ba khu vực tín đồ và đảm trách các nghi lễ của ba khu vực đền tháp. Nếu một cả sư­ ở khu vực nào qua đời thì ở đó chọn một phó cả sư lên thay thế, nhưng phải được sự đồng tình của cộng đồng ngư­ời Chăm ở khu vực đó.Trong các nghi lễ vòng đời cũng như­ trong các nghi lễ cúng bái, luôn có sự hiện diện của các chức sắc tăng lữ Bàlamôn và các thầy cúng, thầy pháp, các nghệ nhân kéo đàn, đánh trống, hát lễ, ông bóng, bà bóng. Những người này đều đ­ược gọi là các thầy chủ lễ, được phân công, phân nhiệm một cách rõ ràng, bài bản. Trước khi hành lễ đều phải làm lễ thức tẩy uế cúng thần linh.Hệ thống chức sắc và các thầy chủ lễ dân gian được chia làm năm thành phần như­ sau: 

1.Các tăng lữ pà xế, gồm 5 cấp bậc (như đã nêu ở trên).
2.Thầy kéo đàn kanhi (kadhar) và bà bóng khu vực tôn giáo (muk pajau)
3.Ông “thầy vỗ” trống paran­ưng (m­duôn); ông thầy múa bóng (on kaing)
4.Thầy cúng (gru urang); thầy pháp (grù tiao pbuh)
5.Những thầy hát khấn, đọc thơ dân gian (on dauh).


Trong số các thầy trên, chỉ có các tăng lữ pà xế bắt buộc phải mặc trang phục riêng theo cấp bậc chức sắc của mình và luôn phải mang gậy thần. Các thầy chủ lễ dân gian khi hành lễ đều phải mặc trang phục truyền thống, khăn quấn đầu luôn thắt nút về phía bên phải đầu.Với những gì trình bày ở trên, chúng tôi thấy, mặc dù ngư­ời Chăm Bàlamôn đã từ rất lâu không tiếp xúc với đạo Bàlamôn trên thế giới, tầng lớp tu sĩ Bàlamôn đã có nhiều biến đổi nhưng về cốt lõi đẳng cấp, về sự nối truyền dòng dõi, sự tu luyện, sự kính trọng của tín đồ, về nhiệm vụ tế tự của họ vẫn có nhiều điểm tồn tại nh­ thời kỳ Bàlamôn cổ đại: ở thời kỳ Phạn thư­, đã xuất hiện gia tộc Bàlamôn tế tự truyền đời. “Phuốc Vêđa gọi họ là “thần của nhân gian”. Họ không đơn thuần là ng­ười chỉ đạo tôn giáo, cũng là giai tầng trí thức đương thời. Họ ­hưởng thụ các loại đặc quyền: nhận của bố thí, đ­ược miễn sưu thuế, khi phạm tội nặng có thể được miễn tội chết, bản thân họ và vợ con và bò của họ đều được công chúng kính lễ.
Thực trạng về chủ lễ trong các nghi lễ của người Chăm Bà là môn
Trong giai đoạn phát triển, giao lưu, hòa nhập hiện nay, tôn giáo Bàlàmôn đang gặp nhiều khó khăn trong việc duy trì lễ nghi tín ngưỡng. Một trong những nguyên nhân cơ bản là thực trạng về việc duy trì hệ thống chủ lễ dân gian và các chức sắc Bàlàmôn.
Thực trạng về các thầy chủ lễ dân gian Theo nhu cầu của hệ thống nghi lễ dày đặc quanh năm của người Chăm Bàlàmôn, nếu không có sự kế thừa, đội ngũ các ông thầy ngày càng thiếu vắng.Một số trí thức người Chăm cho rằng hiện nay với số lượng 22 thầy cúng đuổi tà ma (Gru tiap bhut, gru urang), 13 thầy kéo đàn kanhi, 9 thầy bóng, 3 bà bóng khu vực tôn giáo (Muk pajau), 36 “thầy vỗ” trống Paranưng trong cộng đồng 38.000 người Chăm theo Bàlàmôn là không đủ. Đến thời điểm diễn ra đồng loạt các lễ nghi nông nghiệp và các nghi lễ cộng đồng, nghi lễ dòng tộc, các thầy phải “chạy xô” rất vất vả. Vì vậy, việc truyền dạy nghề là việc làm thường xuyên. Mặc dù các thầy chủ lễ dân gian không bắt buộc phải cha truyền con nối như các tăng lữ, nhưng thường việc này vẫn diễn ra trong các gia đình Chăm, việc cha truyền nghề làm chủ lễ cho con vẫn là phổ biến. Tuy nhiên, để trở thành một ông thầy, Ngoài những tiêu chuần về đạo đức, có gia đình trọn vẹn (một vợ một chồng và có con), người học phải thật sự yêu nghề, có tâm đức và ngoài ra phải có năng khiếu. Muốn trở thành một ông Ka thành (Kadhar) kéo đàn ka nhi hay ông vỗ trống Paranưng (Mưduon), người học phải có năng khiếu âm nhạc và phải có giọng hát tốt, muốn trở thành một ông thầy cúng phải học thuộc hàng trăm hình vẽ bùa phép và hàng trăm bài hát cúng lễ, muốn trở thành  một ông Hăng (hơng) chuyên trang trí lễ tang phải có năng khiêú về hội họa và cũng phải học các bài cúng khấn xin vẽ hoa văn, bùa phép, muốn trở thành ông bóng, bà bóng, ngoài những tiêu chuẩn khắt khe về đạo đức, còn phải có năng khiêú múa và năng lực tiếp xúc với thần linh v.v…Tâm lý chung hiện nay của thanh niên Chăm, nhất là số có học vấn là không muốn trở thành những ông thầy cúng, thầy pháp. Bên cạnh đó, vấn đề thù lao, đãi ngộ cho số người tham gia làm chủ lễ không rõ ràng, đa số là trông đợi vào sự hảo tâm của các gia đình làm lễ, dẫn đến một tâm lý không thoải mái. Đây là một trong những khó khăn mà cộng đồng người Chăm Bàlàmôn đang phải đối phó. Nếu cộng đồng người Chăm không có biện pháp khắc phục, sự thiếu vắng đội ngũ làm chủ lễ sẽ dẫn đến sự thất truyền của một loại hình nghề chứa đựng phong tục tập quán, lễ nghi tín ngưỡng Chăm, dẫn đến sự đơn giản hoá các nghi lễ truyền thống, từ đó dẫn đến sự thất truyền, mai một các yếu tố văn hóa truyền thống của người Chăm Bàlàmôn.
 Thực trạng về hệ thống chức sắc tôn giáo Bà là môn
Dân tộc Champa vốn có một nền văn hóa cổ truyền phong phú, đa dạng được hình thành từ lâu đời. Nền văn hóa ấy là sự chọn lọc, kế thừa, hoà trộn giữa những yếu tố nội sinh và những yếu tố ngoại sinh. Người Chăm Bàlàmôn được coi là “Chăm gốc” và trên thực tế đang là những chủ nhân lưu giữ vốn văn hóa truyền thống ấy. Chính các tôn giáo phong phú, đa dạng đã góp phần tạo nên sắc thái văn hóa Chăm. Những lễ nghi, tín ngưỡng cùng với niềm tin có tính chất tôn giáo Bàlàmôn đang là cơ sở quan trọng để bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống. Nếu những lễ nghi, tín ngưỡng và niềm tin ấy mất đi, chắc chắn kéo theo sự mất mát sắc thái văn hóa truyền thống. Trong giai đoạn phát triển, giao lưu, hòa nhập hiện nay, văn hóa cổ truyền thống các dân tộc đang nhanh chóng bị mai một. Văn hóa cổ truyền của người Chăm Bàlàmôn cũng không nằm ngoài quỹ đạo ấy. Những tôn giáo trong cộng đồng ng­ười Chăm hôm nay, trong đó có đạo Bàlàmôn, đang có những thực trạng cần phải giải quyết. Đó là:Do sự thiếu một hội đồng chức sắc thống nhất và sự chia khu vực tôn giáo nên trong nội bộ mỗi tôn giáo, giữa các tôn giáo và cộng đồng ngư­ời Chăm có nhiều điểm không thống nhất, dẫn đến những mâu thuẫn mà cho đến nay chư­a giải quyết được. Để tiến hành các lễ hội cần có lịch pháp thống nhất nhưng mâu thuẫn về lịch pháp giữa các vùng Chăm đang là vấn đề nan giải. Thậm chí, có vùng lịch chênh nhau đến 2 tháng trong năm. Sự thiếu thống nhất về lịch pháp gây ra rất nhiều điều phiền toái, trước hết là nghi lễ cộng đồng, sau đó là các nghi lễ tộc họ và gia đình. Trong khi nơi này đang là ngày kiêng cữ thì nơi khác lại là ngày tốt và tổ chức lễ c­ưới, dù quan hệ mật thiết đến đâu, là bà con họ hàng cũng không dám đến dự. Hàng năm, vào dịp lễ hội Katê, các vị chức sắc Bàlamôn các vùng lại phải ngồi lại họp để thống nhất lịch, nhiều khi trở thành những cuộc tranh luận, cãi vã gay gắt.Trong nội bộ tôn giáo Bà la môn thư­ờng xảy ra sự tranh chấp chức cả sư (Po dhia). Đã từ xa xư­a, người Chăm Bàlamôn chia ra ba khu vực tôn giáo theo ba khu vực đền tháp, mỗi khu vực tôn giáo chỉ có duy nhất một vị cả s­ư trụ trì, riêng phó cả sư thì có từ 2 vị trở lên. Thông thường, khi cả sư­ mất đi thì phó cả thứ nhất – người tu hành lâu năm, có trình độ, hiểu biết kinh kệ, giáo lý, biết các nghi thức hành lễ, có đạo đức, đầy đủ vợ chồng, gia đình yên ổn và có dòng dõi tăng lữ thì được kế vị cả sư. Như­ng nhiều trư­ờng hợp cạnh tranh đã xảy ra trong những năm 1972, 1993 [4, tr.23] mà nguyên nhân là chưa có sự thống nhất về việc lựa chọn Cả sư giữa các làng Chăm. Sự tranh chấp cả sư ở đây không phải là vấn đề tranh giành quyền lợi cá nhân cả sư mà do các khu vực tôn giáo tranh giành cho khu vực mình. Các cuộc tranh chấp đã lôi kéo nhiều người tham gia gây mất ổn định xã hội, ảnh hưởng đến đời sống tín ngưỡng, an ninh chính trị của cộng đồng Chăm và chính quyền phải can thiệp theo luật pháp, trên cơ sở vận động bà con bàn bạc để chọn ra cho mình vị cả sư­ để duy trì sinh hoạt tín ngưỡng. Phía tôn giáo Bàni cũng thư­ờng xảy ra những vụ tranh chấp sư cả như những năm 1960, năm 1998. Những thực trạng về tôn giáo tín ngưỡng Chăm đang là những kìm hãm sự phát triển.Một thực trạng khác lại mâu thuẫn với thực trạng tranh chấp nói trên là với xu hướng phát triển hiện nay, càng ngày càng ít người muốn đảm nhận nhiệm vụ nắm giữ phần hồn này. Đặc biệt là những chức thấp hơn cả sư lại càng ít người muốn làm. Lớp trẻ hiện nay, trong đó có các thế hệ con cháu các chức sắc pà xế đã không còn mặn mòi với truyền thống cha truyền con nối như trước đây nữa. Nhiều người đã học hành đỗ đạt và đi làm các ngành nghề trong xã hội, có những người đã trở thành cán bộ khoa học, cán bộ quản lý của Nhà nước. Vì vậy, nguy cơ thiếu vắng các chủ lễ dân gian và các chức sắc tôn giáo của cộng đồng người Chăm Bàlàmôn trong một tương lai gần là một thực trạng cần giải quyết. Chúng tôi cho rằng, đây là một vấn đề cốt lõi trong việc bảo lưu văn hóa truyền thống của người Chăm nói chung, của người Chăm Bà là môn nói riêng.Hiện nay ở vùng đồng bào Chăm đang diễn ra sự tranh giành ảnh hư­ởng tôn giáo và lôi kéo tín đồ giữa người Chăm Bàni và Chăm Islam là một vấn nạn thư­ờng xuyên xảy ra (chủ yếu ở những làng Chăm có tín đồ hai tôn giáo cùng sinh sống như ở làng Phư­ớc Nhơn và Văn Lâm) mà cho đến nay vẫn chư­a giải quyết được [4, tr. 23 - 31]. Vì vậy, cần có những giải pháp cấp bách để duy trì, phát triển các hoạt động của tôn giáo Chăm, trong đó có vấn đề duy trì hệ thống các thầy chủ lễ dân gian và các chức sắc tôn giáo.
Người dân Chăm Pa có nguồn gốc là tiền thân Malayo-Polynesian  trước Công nguyên. Qua quan sát đồ đất nung, đồ thủ công và đồ tùy táng đã phát hiện thấy có một sự chuyển đổi liên tục từ những địa điểm khảo cổ như đảo hải nam,sa huỳnh,óc eo,hang động Niah ở Sarawak, Đông Malaysia. Các địa điểm văn hóa Sa Huỳnh rất phong phú đồ sắt trong khi nền văn hóa Đông Sơn cùng thời kỳ ở miền Bắc Việt Nam và các nơi khác trong khu vực Đông Nam Á lại chủ yếu là đồ đồng. Ngôn ngữ Chăm thuộc ngữ hệ Na Đảo Austronesian  Văn hóa Sa Huỳnh là xã hội tiền sử thuộc thời đại kim khí tại khu vực ven biển miền Trung Việt Nam. Năm 1909, đã phát hiện khoảng 200 lọ được chôn ở Sa Huỳnh, một làng ven biển ở nam Quảng ngãi. Từ đó đến nay đã phát hiện được rất nhiều hiện vật ở khoảng 50 địa điểm khảo cổ. Sa Huỳnh có đặc điểm văn hóa thời đại Đồng Thau rất đặc trưng với phong cách riêng thể hiện qua các hiện vật như rìu, dao và đồ trang sức. Việc định tuổi theo phương pháp phóng xạ carbon đã xếp văn hóa Sa Huỳnh đồng thời với văn hóa Đông Sơn, tức khoảng thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Người Chăm bắt đầu cư trú tại đồng bằng ven biển miền Trung Việt nam từ khoảng năm 200 công nguyên. Lúc này người Chăm đã tiếp thu các yếu tố của văn hóa tôn giáo và chính trị của Ấn Độ. Các nghiên cứu khảo cổ học của các tác giả Việt Nam đã cho thấy người Chăm chính là hậu duệ về mặt ngôn ngữ và văn hóa của người Sa Huỳnh cổ. Các hiện vật khảo cổ của người Sa Huỳnh đã cho thấy họ đã là những người thợ thủ công rất khéo tay và đã sản xuất ra nhiều đồ trang sức và vật dụng trang trí bằng đá và thủy tinh. Phong cách trang sức Sa Huỳnh còn phát hiện thấy ở Thái Lan, Đài Loan và Philippine cho thấy họ đã buôn bán với các nước láng giềng ở Đông Nam Á cả bằng đường biển và đường bộ. Các nhà khảo cổ cũng quan sát thấy các hiện vật bằng sắt đã được người Sa Huỳnh sử dụng trong khi người Đông Sơn láng giềng vẫn còn chủ yếu sử dụng đồ đồng.  Trước khi lập quốc :Lâm Ấp Theo sử liệu Trung Quốc, vương quốc Chăm Pa đã được biết đến đầu tiên là vương quốc Lâm Ấp bắt đầu từ năm 192 ở khu vực Huế ngày nay, sau cuộc khởi nghĩa của người dân địa phương chống lại nhà Hán. Trong nhiều thế kỷ sau đó, quân đội Trung Quốc đã nhiều lần cố gắng chiếm lại khu vực này nhưng không thành công. Từ nước láng giềng Phù Nam ở phía tây và nam, Lâm Ấp nhanh chóng hấp thu nền văn minh Ấn Độ. Các học giả đã xác định thời điểm bắt đầu của Chăm Pa là thế kỷ thứ 4 Công nguyên, khi quá trình Ấn hóa đang diễn ra. Đây chính là giai đoạn mà người Chăm đã bắt đầu có các văn bản mô tả trên đá bằng chữ Phạn và bằng chữ Chăm, và họ đã có bộ chữ cái hoàn chỉnh để ghi lại tiếng nói của người Chăm. Vị vua đầu tiên được mô tả trong văn bia là Bhadravarman, cai trị từ năm 349 đến 361. Ở thánh địa mỹ Sơn, vua Bhadravarman đã xây dựng nên ngôi đền thờ thần có tên là Bhadresvara, cái tên là sự kết hợp giữa tên của nhà vua và tên của thần Shiva, vị thần của các thần trong Ấn Độ giáo. Việc thờ vua như thờ thần, chẳng hạn như thờ với tên thần Bhadresvara hay các tên khác vẫn tiếp diễn trong các thế kỷ sau đóVào thời Bhadravarman, kinh đô của Lâm Ấp là kinh thành Simhapura ("thành phố Sư tử"), nằm ở dọc hai con sông và bao quanh bởi tường thành có chu vi dài đến tám dặm. Theo ghi chép lại của một người Trung Quốc thì người Lâm Ấp vừa ưa thích ca nhạc nhưng cũng lại hiếu chiến, và có "mắt sâu, mũi thẳng và cao, và tóc đen và xoănCũng theo tài liệu Trung Quốc, Sambhuvarman lên ngôi vua Lâm Ấp năm 529. Các tài liệu cũng mô tả vị vua này đã cho khôi phục lại ngôi đền thờ Bhadresvara sau một vụ cháy. Sambhuvarman cũng đã cử sứ thần sang cống tuế Trung Quốc, và đã xâm lược không thành phần đất mà ngày nay là miền Bắc Việt Nam. Năm 605, tướng Lưu Phương nhà Tùy xâm lược Lâm Ấp, và đã chiến thắng sau khi dụ tượng binh của Lâm Ấp đến và tiêu diệt tại trận địa mà trước đó ông đã cho đào nhiều hố nhỏ và phủ cỏ lên. Vào khoảng những năm 620, các vua Lâm Ấp đã cử nhiều sứ thần sang nhà Đường và xin được làm nước phiên thuộc của Trung Quốc.Các tài liệu Trung Quốc ghi nhận cái chết của vị vua cuối cùng của Lâm Ấp là vào khoảng năm 756 Công nguyên. Sau đó trong một thời gian dài, các sách sử Trung quốc gọi Chăm Pa là "Hoàn Vương. Tài liệu Trung Quốc sớm nhất sử dụng tên có dạng "Chăm Pa" là vào năm 877, tuy nhiên, những cái tên như vậy đã được người Chăm sử dụng muộn nhất là từ năm 629, và người Khmer đã dùng muộn nhất là từ năm 657.

THỜI KÌ CỰC THỊNH CHAMPA
Từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 15, người Champa kiểm soát việc buôn bán hồ tiêu và tơ lụa giữa Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, và đế quốc Abbassid ở Baghdad. Người Chăm còn bổ sung thêm cho nguồn thu nhập của mình từ thương mại, không chỉ bằng việc xuất khẩu ngà voi,trầm hương các nước láng giềng ven biển.  Thánh địa của người Champa ở Mỹ Sơn -Tháp Chăm ở Mỹ SơnVào nửa cuối thế kỷ thứ 7, các ngôi đền của hoàng gia bắt đầu được xây dựng tại Mỹ Sơn. Tôn giáo chính lúc này là thờ thần Shiva nhưng các ngôi đền cũng thờ cả thần Vishnu. Các học giả gọi phong cách kiến trúc thời kỳ này là phong cách Mỹ Sơn E1, để chỉ các di tích ở Mỹ Sơn điển hình theo phong cách này. Các công trình còn đến nay của phong cách này bao gồm bệ đá hình linga được biết với tên gọi là bệ đá Mỹ Sơn E1 và phần trán tường có hình Brahma được sinh ra từ hoa sen nở từ rốn của thần Vishnu đang ngủ.Trong một văn bia khắc năm 657 tìm thấy ở Mỹ Sơn, vua Prakasadharma, người lấy hiệu là Vikrantavarman I, đã tự xưng có bên ngoại là hậu duệ của Brahman Kaundinya và công chúa rắn Soma, người theo truyền thuyết cũng là thủy tổ của người Khmer. Chính văn bia này đã cho thấy mối quan hệ về văn hóa và chủng tộc giữa vương quốc Chăm Pa và đế quốc Khmer. Bia được khắc nhân dịp vua cho dựng tượng đài, có lẽ là linga, cho thần Shiva. Một văn bia khác mô tả lời cầu nguyện chân thành của vua khi hiến tế cho Shiva: người là nguồn khởi thủy của sự kết thúc vĩnh viễn sự sống, điều rất khó đạt được; mà bản chất thực sự nằm ngoài suy nghĩ và lời nói của con người, tuy nhiên những ai mà ý niệm tương đồng với vũ trụ thì hình thái của người sẽ hiện ra.  Thời kỳ hưng thịnh của Kauthara Vào thế kỷ thứ 8, trung tâm chính trị của Chăm Pa đã tạm thời chuyển từ Mỹ Sơn xuống khu vực Panduranga và Kauthara, với trung tâm ở quanh quần thể đền tháp là Tháp Bà - Po Nagar ở gần Nha Trang ngày nay nơi để thờ nữ thần đất Yan Po Nagar. Năm 774, người Java đã phá hủy Kauthara, đốt đền thờ Po Nagar, và mang đi tượng Shiva. Vua Chăm là Satyavarman đã đuổi theo quân giặc và đánh bại chúng trong một trận thủy chiến. Năm 781, Satyavarman đã dựng bia tại Po Nagar, tuyên bố đã chiến thắng và kiểm soát toàn bộ khu vực và đã dựng lại đền. Năm 787, người Java lại đốt phá đền thờ Shiva ở gần Panduranga.  Chiêm Thành -Triều đại Phật giáo ở Indrapura Năm 875, vua Indravarman II đã xây dựng nên triều đại mới ở Indrapura (thành Đồng Dương, ở huyện Thăng Bình, Việt Nam ngày nay). Vua Indravarman tự xưng là hậu duệ của Bhrigu trong sử thi Mahabharata, và quyết đoán rằng chính kinh thành Indrapura đã từng được chính Bhrigu ở thời cổ đại xây dựng nên. Indravarman là vị vua Chăm đầu tiên theo Phật giáo Đại thừa và xem đây là tôn giáo chính thức. Ở trung tâm của Indrapura, ông đã xây dựng một tu viện Phật giáo (vihara) để thờ bồ tátLokesvara (Quán Thế Âm). Di tích này đã bị hủy hoại trong chiến tranh Việt Nam, chỉ còn lại một số hình ảnh và bản vẽ từ trước chiến tranh. Một số tượng đá từ tu viện cũng được gìn giữ tại các viện bảo tàng ở Việt Nam. Các học giả đã gọi phong cách nghệ thuật điển hình tại Indrapura là phong cách Đồng Dương. Phong cách đặc trưng bởi tính năng động và tính hiện thực về mặt dân tộc học khi mô tả người Chăm. Các tác phẩm còn lại của phong cách này có một số bức tượng dvarapala hay hộ pháp rất dữ tợn trước đây được đặt ở quanh tu viện. Thời kỳ Phật giáo thống trị, Chăm Pa kết thúc năm 925, lúc phong cách Đồng Dương đã bắt đầu nhường bước cho các phong cách tiếp theo có mối liên hệ với sự phục hồi của đạo thờ thần Siva.Các vua của triều đại Indrapura đã xây dựng ở Mỹ Sơn một số đền tháp vào thế kỷ thứ 9 và thứ 10. Các đền tháp này ở Mỹ Sơn đã xác định một phong cách kiến trúc và nghệ thuật khác mà các học giả gọi là phong cách Mỹ Sơn A1, dùng để chỉ tất cả các di tích ở Mỹ Sơn điển hình cho phong cách này. Với sự chuyển đổi tôn giáo từ Phật giáo trở về Si-va giáo vào khoảng thế kỷ thứ 10, trung tâm tôn giáo của người Chăm cũng chuyển từ Đồng Dương trở về Mỹ Sơn. 
Suy yếu:Chăm Pa đạt đến đỉnh cao của văn minh Chăm ở Indrapura nằm tại khu vực Đồng Dương và Mỹ Sơn ngày nay. Các yếu tố dẫn đến sự suy yếu của Chăm Pa ở các thế kỷ sau chính là ở vị trí lý tưởng nằm trên các tuyến thương mại, dân số ít và thường xuyên có chiến tranh với các nước láng giếng là Đại Việt ở phía Bắc và Khmer ở phía Tây và Nam.Lịch sử Bắc Chăm Pa (Indrapura và Vijaya) phát triển đồng thời với vương quốc láng giềng là nền văn minh Angkor của người Khmer nằm ở phía bắc hồ lớn Tonle Sap trên phần đất mà ngày nay là Campuchia. Sau khi vương triều Chăm ở Indrapura được thiết lập năm 875 thì chỉ hai năm sau tức năm 877 tại Roluos, vua Indravarman I đã thiết lập đế quốc Khmer. Lịch sử của Chăm Pa và đế quốc Khmer cũng đều phát triển rực rỡ trong thế kỷ 10 đến thế kỷ 12, rồi đều dần suy yếu và tan rã vào thế kỷ thứ 15. Năm 1238, đế quốc Khmer mất miền đất phía tây xung quanh Sukhothai sau một cuộc nổi dậy của người Xiêm. Thành công của cuộc nổi dậy không chỉ mở ra kỷ nguyên độc lập của người Xiêm mà còn báo trước sự tan rã của Angkor năm 1431 sau khi bị người Xiêm từ vương quốc Ayutthaya phá hủy và rồi bị sát nhập vào Sukhothai năm 1376. Sự suy yếu của Champa cũng diễn ra đồng thời với Angkor, dưới sức ép từ Đại Việt, quốc gia nằm ở miền Bắc Việt Nam ngày nay, và chấm hết khi kinh thành Vijaya (tức Chà Bàn) bị người Việt chinh phục và phá hủy vào năm 1471. Khmer xâm chiếm KautharaNăm 944 và 945, quân đội Khmer từ Angkor đã xâm chiếm khu vực Kauthara. Khoảng năm 950, người Khmer đã phá hủy đền Po Nagar và lấy đi tượng nữ thần. Năm 960, vua Champa là Jaya Indravaman I đã cử sứ thần sang nhà Tống (lúc này đóng đô ở Khai Phong). Năm 965, nhà vua đã cho xây dựng lại đền thờ Po Nagar và tượng nữ thần để thay thế cho bức tượng đã bị lấy đi Rời bỏ kinh đô Indrapura-Lãnh thổ Champa vào thế kỷ 10.Vào nửa cuối thế kỷ thứ 10, các vua của triều đại Indrapura đã tiến hành chiến tranh với Đại Cồ Việt. Trước đó, ở nửa đầu thế kỷ này, người Việt đã giành được độc lập từ tay người Trung quốc. Sau khi Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, đất nước lại trải qua thời kỳ loạn các sứ quân và được Đinh Bộ Lĩnh thống nhất năm 968 với quốc hiệu Đại Cồ Việt và kinh đô ở Hoa Lư thuộc địa phận Trường Yên tỉnh Ninh Bình ngày nay.Năm 979, vua Champa là Parameshvaravarman I (sách Đại Việt Sử kí Toàn thư gọi là Bê Mi Thuế) đã cử hạm đội sang tấn công Hoa Lư. Tuy nhiên, toàn bộ quân viễn chinh đã bị tan rã sau một cơn bão. Năm 982, vua Lê Hoàn của Đại Cồ Việt đã cử ba sứ thần sang Indrapura. Sau khi các sứ thần bị giam giữ, vua Lê Hoàn đã quyết định đánh Champa. Quân Đại Việt đã chiếm Indrapura và giết vua Parameshvaravarman. Họ mang về nước rất nhiều nhạc công và vũ công Champa, chính những người này về sau đã ảnh hưởng đến sự phát triển nghệ thuật của Đại Việt. Do hậu quả để lại của việc tàn phá, người Chăm đã rời bỏ Indrapura vào khoảng năm 1000. Trung tâm của Chăm Pa được chuyển xuống Vijaya ở phía nam nằm trên đất tỉnh Bình Định ngày nay mà người Việt thời Lý gọi là Phật Thệ.Người Việt triệt phá Vijaya.Mâu thuẫn giữa Champa và Đại Việt đã không chấm dứt với việc người Champa từ bỏ kinh đô Indrapura. Champa đã chịu các đợt tấn công của Đại Việt năm 1021 và 1026. Năm 1044, một trận đại chiến diễn ra giữa Đại Việt và Champa đã dẫn đến cái chết của vua Jaya Simhavarman II (sách sử Việt gọi là Sạ Đẩu) và việc vua Lý Thái Tông của Đại Việt trực tiếp chỉ huy cuộc triệt hạ kinh đô Vijaya. Quân Việt mang về nước voi, nhạc công và cả hoàng hậu Mỵ Ê, người đã nhảy xuống sông tự tử trên đường về Thăng Long. Từ đó, Champa bắt đầu nộp cống cho các vua Đại Việt, và vào năm 1065 đã cống nạp một con tê giác trắng. Năm 1068, vua Vijaya là Rudravarman IV (tức Chế Củ) lại tấn công Đại Việt để trả thù trận thua năm 1044. Một lần nữa người Champa bị thất bại và Đại Việt lại chiếm và đốt phá kinh đô Vijaya. Kinh đô Vijaya bị đốt phá một lần nữa vào năm 1069, khi tướng Lý Thường Kiệt chỉ huy hải quân tấn công Champa và chiếm Vijaya. Vua Rudravarman bị bắt làm tù binh và sau đó đã đổi ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính lấy tự do. Lợi dụng tình hình chiến sự, các thủ lĩnh người Champa ở phía Nam đã dựng lên một vương quốc độc lập. Đến năm 1084, các vua Bắc Champa mới có thể tái thống nhất đất nước. Trong năm 1075, quân Đại Việt do Lý Thường Kiệt chỉ huy lại tấn công Champa nhưng không thắng được và phải rút quân về. Tuy không thắng nhưng Lý Thường Kiệt đã cho vẽ họa đồ ba châu mới lấy được và đổi châu Địa Lý làm châu Lâm Bình, châu Ma Linh làm châu Minh Linh và đồng thời chiêu mộ dân chúng đến đấy ở Khmer xâm chiếm Bắc Champa.Năm 1074, vua Harivarman IV lên ngôi đã cho phục dựng lại các đền tháp ở Mỹ Sơn và mở ra một thời kỳ thịnh vượng ngắn ngủi. Harivarman thiết lập quan hệ hòa bình với Đại Việt nhưng lại mở ra cuộc chiến với người Khmer của đế chế Angkor. Năm 1080, quân đội Khmer đã tấn công Vijaya và các trung tâm khác ở miền Bắc Champa. Các đền tháp và tu viện đã bị phá hủy; các di sản văn hóa đã bị lấy đi. Sau những thất bại này, quân Champa dưới sự chỉ huy của vua Harivarman đã đẩy lùi quân địch, khôi phục lại kinh đô và các đền tháp.Khoảng năm 1080, một triều đại mới đã ra đời ở cao nguyên Korat trên đất Thái Lan ngày nay đã chiếm ngai vàng Angkor của đế quốc Khmer. Ngay sau đó, các vua của triều đại mới đã tiến hành mở rộng đế quốc. Sau thất bại của các cuộc tấn công Đại Việt năm 1132 và 1137, các vua Angkor đã quay sang Champa. Năm 1145, quân đội Khmer dưới sự chỉ huy của vua Suryavarman II, người đã xây dựng Angkor Wat, đã chiếm Vijaya và phá hủy các đền tháp ở Mỹ Sơn. Vua Khmer sau đó đã tấn công và chiếm toàn bộ miền Bắc Champa. Tuy nhiên, năm 1149, vua Jaya Harivarman, lãnh đạo của tiểu quốc Panduranga ở phía Nam, đã đánh bại quân xâm lược và lên ngôi vua của các vua tại Vijaya. Ông đã dành thời gian trị vị còn lại để đàn áp các cuộc nổi loạn tại Amaravati và Panduranga. Người Champa chiếm Angko Phù điêu cuối thế kỷ 12 ở đền Bayon (Angkor) mô tả các thủy binh Champa đang tấn công quân Khmer.Năm 1167, Jaya Indravarman IV (sử Việt gọi ông là Chế Chí) lên ngôi vua Champa. Tài liệu văn bia mô tả ông dũng cảm, sử dụng thành thạo mọi loại vũ khí, và thông hiểu triết học, thuộc hết các lý lẽ Dharmasutra (một kinh Ấn Độ giáo) và các học thuyết Phật giáo Đại thừa. Sau khi thiết lập hòa bình với Đại Việt năm 1170, vua Jaya Indravarman đã đánh sang Khmer. Năm 1177, một lần nữa quân đội của nhà vua đã bất ngờ tấn công thủ đô Khmer là Yasodharapura từ các thuyền chiến đi ngược sông Mekong đến hồ lớn Tonle Sap ở Khmer. Quân Champa đã chiếm thủ đô Khmer, giết vua Khmer, và mang về nhiều chiến lợi phẩm. Vijaya bị người Khmer chinh phục.Người Khmer nhanh chóng ủng hộ nhà vua mới Jayavarman VII người đã đẩy lùi quân Champa ra khỏi vương quốc Khmer vào năm 1181. Khi Jaya Indravarman IV một lần nữa tấn công Khmer năm 1190, Jayavarman VII đã giao cho một hoàng tử người Champa là Vidyanandana làm tổng chỉ huy quân Khmer. Vidyanandana đã đánh bại quân xâm lược Champa và thậm chí tiến lên chiếm Vijaya và bắt sống vua Jaya Indravarman về Angkor.Sau khi chinh phục Vijaya, vua Khmer chọn người em rể là Hoàng tử In làm vua bù nhìn ở Champa. Nội chiến nổ ra tại Champa giữa các phe phái và cuối cùng Hoàng tử In chiến thắng nhưng lại tuyên bố Champa độc lập khỏi vương quốc Khmer. Quân Khmer đã cố gắng chiếm lại Champa nhưng không thành trong suốt những năm 1190. Năm 1203, cuối cùng thì tướng của vua Jayavarman VII cũng chiếm lại được Vijaya và biến Champa trở lại thành một tỉnh của Angkor. Champa hoàn toàn mất độc lập cho đến năm 1220. Sau đó, Vijaya đi vào giai đoạn suy thoái kéo dài hơn hai thế kỷ. Thời kỳ này đi đến kết thúc bởi Đại Việt và chỉ có một gián đoạn ngắn ngủi trong những cố gắng quân sự của vua Che Bonguar. Cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông.Năm 1270, Kublai Khan dựng nên nhà Nguyên ở Bắc Kinh và dần dần chiếm hết miền Nam Trung Quốc do nhà Nam Tống cai trị. Năm 1280, Kublai Khan quay sang thôn tính Champa và Đại Việt. Năm 1283, quân Nguyên dưới sự chỉ huy của tướng Sogetu đánh Champa và chiếm kinh thành Vijaya. Việc xâm lược Champa không có kết quả lâu dài. Thay vì tấn công trực diện, vua Champa đã cho rút quân lên Tây Nguyên và tiến hành chiến tranh du kích. Hai năm sau, quân Nguyên phải rút lui và Sogetu bị giết trên đất Đại Việt trong một trận chiến khác trên đường rút quân về. Jaya Simhavarman III.Năm 1307, vua Champa là Jaya Simhavarman III (sử Việt gọi là Chế Mân), đã dựng đền thờ Po Klau Garai ở Panduranga (Phan Rang), và nhượng hai châu Ô, Lý ở phía bắc cho Đại Việt làm của hồi môn để cưới công chúa Huyền Trân nhà Trần. Không lâu sau hôn lễ, nhà vua băng hà, Đại Việt cử người cướp công chúa trở về để tránh bị hỏa táng theo tục lệ của người Champa???. Tuy nhiên phần đất hồi môn của Chế Mân đã không trở về với Champa. Để giành lại miền đất này, và nhân cơ hội Đại Việt suy yếu trong thế kỷ thứ 14, quân Champa bắt đầu thường xuyên xâm nhập biên giới vào sâu trong đất Đại Việt ở phía Bắc.
Vua Trà Hoa Bồ Đề (1342-1360)( Ông là Hậu duệ Vua Chế Mân,Con rể Vua Chế a Nan).Ngày giổ tổ 12/03(âm lịch).Ông thuộc vương triều thứ 12,Triều đại thứ 9,đóng đô ở thành Vijaya(Đồ bàn,bình định),giai đoan cực thịnh của vương quốc Champa.Vương quốc ông trị vì trải dài từ dãy hoàng liên sơn phía bắc ,nam giáp đến Đồng nai ngày nay.Đông giáp biển champa(biển đông), tây giáp tây lào.Kinh tế phát triển mạnh mẽ dựa vào nguồn đánh bắt thủy sản đồi mồi, ngọc trai, yến sào ,ngà voi,trầm hương..,nền nông nghiệp trồng lúa nước nổi tiếng đông nam á,sản suất gốm sứ sa huỳnh,điêu khắc,dệt thổ cẫm,công nghiệp sx đồng, đồng thau phát triển rực rỡ,đội tàu thuyền hùng mạnh cung cấp hàng hóa cho một vùng rông lớn Đông á và tây á. Quảng lí một vùng biển champa rộng lớn(biển đông)gần 3.500.000km2.Trong khoảng thời điểm đó, Người Champa rất nổi tiếng trong việc buôn bán các loại gia vị , hồ tiêu và tơ lụa với các nước như Trung Quốc, Ấn độ,Nusantara ( Indonesia, Malaysia, brunei…ngày nay) và nước Abbasiah ở Baghdad .Vào khoảng thời gian này, người Chăm được biết đến với tài đi biển rất gỏi và những thương nhân tài ba.Quân đội gồm những đội tượng binh hằng ngàn voi chiến,đội thuyền chiến hùng hậu,đẩy lui các cuộc xâm lược ngoại bang khmer và đại việt trong thời gian trị vì,bảo vệ đất nước. 



2 nhận xét:

  1. can phai hoi y kien tac gia khi dang bai

    Trả lờiXóa
  2. Chào bạn, mình rất cảm ơn về sự đóng góp ý kiến của bạn. Thực ra các bài đăng về lịch sử Champa mình chỉ đăng để tham khảo thôi, chứ không có ý gì khác, mong bạn thứ lỗi và bỏ qua vì mình đăng bài mà không báo trước cho bạn. Blog Champa của ban đăng nhiều bài rất hay, súc tích, dễ hiểu, mình rất mong muốn đọc các bài của bạn và cho ý kiến, nếu cần thiết và có bài nào hay và tốt thì mình sẽ xin bạn ý kiến để được đăng bài. Thân chào .

    Trả lờiXóa