phần 8
Châu Ô
và châu Rí là đề tài tranh chấp giữa Đại Việt và Champa trong thời gian sau đó.
Năm 1307, Trần Anh Tôn đặt tên lại hai châu mới này thành Thuận châu (Quảng Trị)
và Hóa châu (Thừa Thiên và một phần Quảng Nam ngày nay), rồi giao cho Đoàn Nhữ
Hài cai quản. Châu Thuận gồm các huyện Đăng Xương (nay là Triệu Phong), Hải
Lăng, Phong Điền , Quảng Điền và Hương Trà. Châu Hóa gồm các huyện Phú Vang,
Phú Lộc, Diên Phước và Hòa Vang. Người Chăm sống trong các làng La thỉ, Tác Hồng
và Đà Bồng nổi lên chống sự cai trị của người Việt. Để trấn an dân Chăm, Đoàn
Nhữ Hài chấp nhận để người Chăm chịu sự quản trị trưc tiếp của các nhân sĩ Chăm
địa phương và cho miễn thuế ba năm.
Về chủ quyền, nông dân Việt đã đến lập
nghiệp và khai phá hai châu này từ lâu, nhất là trong thời gian có chiến tranh
với Mông Cổ. Thật ra sự sát nhập này, trên bình diện nào đó, chỉ là sự hợp thức
hóa một sự kiện đã rồi, vì quan hệ cộng sinh giữa hai chủng tộc đã diễn ra từ
lâu đời. Những cuộc hôn nhân dị chủng chắc chắn không phải là những trường hợp
ngoại lệ, với thời gian dân cư Việt có lẽ đã đông hơn dân cư Chăm tại đây.
Sau 5 năm thương lượng gay go giữa hai triều đình về của hồi môn, năm
1306 vua Trần Anh Tôn chấp thuận gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân, bù lại
lãnh thổ bắc Champa (Indrapura) : châu Ô và châu Lý thuộc nhà Trần. Cuộc hôn
nhân dị chủng này đã trở thành tranh chấp giữa hai dân tộc và hai triều đình suốt
thời gian sau đó. Cho đến nay chưa một tài liệu nào giải thích về trường hợp
công chúa Huyền Trân một cách rõ ràng và có tính thuyết phục. Người Champa tố
cáo nhà Trần lợi dụng cuộc hôn nhân này để chiếm đoạt đất đai của họ. Thơ văn
Việt Nam bênh vực Huyền Trân như là nạn nhân của một vụ đổi chác chính trị và đả
kích Chế Mân (với những lời lẽ khiếm nhã) dám sánh ngang hàng với người Việt…
Những lý luận vừa kể chứng tỏ sự thiếu hiểu biết về phong tục tập quán của
người Chăm. Khi cựu vương Trần Nhân Tôn hứa gả Huyền Trân cho Chế Mân, ông muốn
thành lập một liên minh quân sự chống lại quân Mông Cổ khi bị tấn công. Nhưng
chiến lược này đã không được quần thần chấp nhận vì không muốn một sự pha chủng
nào trong quan hệ hoàng gia.
Có lẽ bà hoàng hậu thứ ba này của Chế Mân đã rất được sủng ái nên sử
tích Chăm kể rằng Huyền Trân được nhà vua đưa đi thăm viếng những danh lam thắng
cảnh của Champa. Các suối nước nóng dọc bờ biển miền Trung được dành riêng cho
bà tắm rửa, kể cả suối Vĩnh Hảo (huyện Tuy Phong, Phan Thiết), để hạnh phúc của
vua và hoàng hậu được bền lâu. Nhưng hạnh phúc đã không dài lâu. Hơn một năm
sau, tháng 5-1307 Chế Mân từ trần. Hung tin đến tai nhà Trần bốn tháng sau đó,
tháng 9-1307. Lo sợ em gái mình bị hỏa thiêu??? Trần Nhân Tôn sai quan nhập nội
hành khiển thượng thư tả bộc sạ Trần Khắc Chung và quan an phủ sứ Đặng Văn sang
Champa phúng điếu rồi tìm kế đưa Huyền Trân về.
Việc hỏa thiêu vợ khi vua băng hà là hoàn toàn bịa đặt. Nếu Huyền Trân bị
triều đình Champa bắt chết theo Chế Mân thì bà đã bị hỏa thiêu từ lâu rồi, vì
theo tục lệ của người theo đạo Hồi hay Bà La Môn xác người chết chỉ giữ tối đa
là 7 ngày sau đó phải đem hỏa thiêu.
Thật ra trong vụ này triều đình Champa đã quyết định trả Huyền Trân về lại
cho nhà Trần để đòi lại hai châu Ô và Rí nên đã tiếp đón phái đoàn Trần Khắc
Chung một cách ân cần và cấp hơn 300 thủy binh hộ tống. Sự từ khước kết nghĩa
suôi gia này có một ý nghĩa đặc biệt, nó thể hiện sự từ chối hợp tác giữa hai nền
văn minh và văn hóa khác nhau, một bên là văn minh văn hóa Khổng Mạnh và một
bên là văn minh văn hóa Ấn Độ. Cả hai vương triều gần như chấp nhận sự khác biệt
đó và không muốn có một sự hòa hợp nào.
Còn chuyện hỏa thiêu có lẽ đã do Trần Khắc Chung thêu dệt ra để được Trần
Anh Tôn cử sang Champa đón Huyền Trân về nước. Sau khi gặp lại người yêu, thay
vì căng buồm về Bắc ông dẫn Huyền Trân ra một hoang đảo tư thông với nhau trong
suốt một năm liền, đến mùa thu năm 1308 mới lên thuyền về lại Thăng Long. Đoàn
thủy binh Chăm lúc đó mới được giao trả cho Champa để báo cáo sự việc.
Cũng nên biết, nhà Trần áp dụng chế độ nội hôn để bảo vệ quyền lợi hoàng
tộc. Việc Trần Khắc Chung tư thông với Huyền Trân được coi là bình thường.
Nhưng triều đình Champa không chấp nhận và rất căm hận về chuyện này, vì Huyền
Trân là hoàng hậu Champa bị một quan Việt thông dâm xúc phạm đến danh dự hoàng
triều và tín ngưỡng quốc gia. Có lẽ cũng chính vì thế mà Hưng Nhượng đại vương
Trần Quốc Tảng (con Trần Hưng Đạo) mắng "họ tên người này không tốt, có lẽ
nhà Trần mất vì người này chăng?", vì Khắc là thắng, Chung là tàn (thắng
xong thì tàn lụi theo). Cuộc tình sử tay ba này ít được người đời nhắc tới mà
chỉ nói về cuộc hôn nhân dị chủng mà thôi.
Về phía Champa, đền thờ Chế Mân được lập tại
Tháp Po Klong Garai (Tháp Chàm, Phan Rang) và tại Yan Prong (An Khê, Đắc Lắc) cạnh
núi Se San. Dân chúng thờ ông dưới tên Sri Jaya Sinhavarma Lingesvara.
Hoàng tử Po Sah - 23 tuổi, con của chánh hậu Bhaskaradevi (người Java),
tước Pulyan Mahendravarman tiểu vương lãnh địa từ sông Vok (sông Bung) đến bắc
Bình Định (Bhumana) - lên thay năm 1307, hiệu Jaya Sinhavarman IV (còn gọi là
Chế Chí hay Chế Dà La). Việc đầu tiên của tân vương là xúi giục dân Chăm tại
Thuận châu và Hóa châu nổi loạn.
Năm 1311, Trần Anh Tôn tấn công Champa, bắt Chế Chí về giam tại cung Gia
Lâm (và mất năm 1313), đưa em trai của Chế Chí là Chế Đà A Bà Niêm lên thay, hiệu
Chế Năng. Năm 1314 Chế Năng kéo quân ra Bắc chiếm lại châu Ô và châu Rí và chỉ
bị đẩy lui năm năm sau đó. Năm 1318, quân Trần tiến xuống Đồ Bàn, Chế Năng cùng
hoàng gia chạy sang Java lánh nạn, triều đình Chiêm Thành bị bỏ trống. Đây là đợt
di dân thứ ba của người Chăm ra hải ngoại. Chế Năng là con thứ hậu Tapasi, người
Yavadvipa.
Triều vương thứ mười hai (1318-1390) :
Năm 1318, nhà Trần phong một tướng Champa tên Thủ (Patalthor) lên ngôi, hiệu Chế A Năng (hay Thành A vương, tương đương với tước phó vương của Đại Việt). Vì không thuộc dòng dõi bộ tộc Cau và Dừa, Chế A Năng liên tục bị triều thần chống đối từ 1323 đến 1326. Để có sự chính thống, năm 1323 Chế A Năng cử em trai là Pao Yeou Patseutcho đi sứ sang Trung Hoa xin nhà Nguyên công nhận. Hay tin này, năm 1326 nhà Trần mang quân sang đánh nhưng bị đẩy lùi.
Năm 1342 khi Chế a năng mất,con rể Tra hoa bo de ( Trà hoa bồ đề) lên ngôi. Ông thuộc vương triều thứ 12, Triều đại thứ 9, đóng đô ở thành Vijaya (Đồ bàn, Bình Định),giai đoan cực thịnh của vương quốc Champa.Có nhiều sử sách đại việt viết rằng ông cướp ngôi Chế mỗ ( hoàng tử), nhưng thực ra ông lên ngôi vì quyết định của vua cha Chế a Năng và hội đồng hoàng gia champa.Vì Chế mỗ nhu nhược và ăn chơi sa đọa.Ông lên ngôi để đãm trách một sứ mệnh lịch sử mà champa giao cho ông.Vương quốc ông trị vì trải dài từ dãy hoàng liên sơn phía bắc ,nam giáp đến Đồng nai ngày nay.Đông giáp biển champa(biển đông), tây giáp tây lào.Kinh tế phát triển mạnh mẽ dựa vào nguồn đánh bắt thủy sản đồi mồi, ngọc trai, yến sào ,ngà voi,trầm hương..,nền nông nghiệp trồng lúa nước nổi tiếng đông nam á,sản suất gốm sứ sa huỳnh,điêu khắc,dệt thổ cẫm,công nghiệp sx đồng, đồng thau phát triển rực rỡ,đội tàu thuyền hùng mạnh cung cấp hàng hóa cho một vùng rông lớn Đông á và tây á. Quảng lí một vùng biển champa rộng lớn(biển đông)gần 3.500.000km2 .Trong khoảng thời điểm đó, Người Champa rất nổi tiếng trong việc buôn bán các loại gia vị , hồ tiêu và tơ lụa với các nước như Trung Quốc, Ấn độ, Nusantara ( Indonesia, Malaysia, Brunei…ngày nay) và nước Abbasiah ở Baghdad .Vào khoảng thời gian này, người Champa được biết đến với tài đi biển rất giỏi và những thương nhân tài ba.Quân đội gồm những đội tượng binh hằng ngàn voi chiến,đội thuyền chiến hùng hậu,đẩy lui các cuộc xâm lược ngoại bang khmer và đại việt trong thời gian trị vì,bảo vệ đất nước.Năm 1360, Trà Hoa Bồ Đề qua đời, em Chế A Năng là Po Binasor (Po Bhinethuor) được triều thần tôn lên làm vua, hiệu Chế Bồng Nga (Che Bonguar). Chế Bồng Nga là một vị tướng tài, chỉ huy nhiều trận đánh vào lãnh thổ Đại Việt. Vừa lên ngôi, ông liền tổ chức lại quân đội, chuẩn bị chiến tranh với nhà Trần nhằm chiếm lại những phần lãnh thổ bị mất. Những tù trưởng và bộ lạc trên Tây Nguyên theo Chế Bồng Nga rất đông.
Từ 1360 đến 1370, quân Champa ra vào lãnh thổ Đại Việt như chốn không người. Dân cư Đại Việt lập nghiệp dọc các vùng bờ biển Bố Chánh, Tân Bình, Thuận Hóa (Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên) sinh sống rất khổ sở trước nạn binh đao. Từ 1371 đến 1383, quân Champa đã ba lần chiếm đóng Thăng Long và năm 1390 lúc đang tiến vào Thăng Long lần thứ tư thì Chế Bồng Nga bị tử trận, chấm dứt một trang sử anh hùng.
Năm 1318, nhà Trần phong một tướng Champa tên Thủ (Patalthor) lên ngôi, hiệu Chế A Năng (hay Thành A vương, tương đương với tước phó vương của Đại Việt). Vì không thuộc dòng dõi bộ tộc Cau và Dừa, Chế A Năng liên tục bị triều thần chống đối từ 1323 đến 1326. Để có sự chính thống, năm 1323 Chế A Năng cử em trai là Pao Yeou Patseutcho đi sứ sang Trung Hoa xin nhà Nguyên công nhận. Hay tin này, năm 1326 nhà Trần mang quân sang đánh nhưng bị đẩy lùi.
Năm 1342 khi Chế a năng mất,con rể Tra hoa bo de ( Trà hoa bồ đề) lên ngôi. Ông thuộc vương triều thứ 12, Triều đại thứ 9, đóng đô ở thành Vijaya (Đồ bàn, Bình Định),giai đoan cực thịnh của vương quốc Champa.Có nhiều sử sách đại việt viết rằng ông cướp ngôi Chế mỗ ( hoàng tử), nhưng thực ra ông lên ngôi vì quyết định của vua cha Chế a Năng và hội đồng hoàng gia champa.Vì Chế mỗ nhu nhược và ăn chơi sa đọa.Ông lên ngôi để đãm trách một sứ mệnh lịch sử mà champa giao cho ông.Vương quốc ông trị vì trải dài từ dãy hoàng liên sơn phía bắc ,nam giáp đến Đồng nai ngày nay.Đông giáp biển champa(biển đông), tây giáp tây lào.Kinh tế phát triển mạnh mẽ dựa vào nguồn đánh bắt thủy sản đồi mồi, ngọc trai, yến sào ,ngà voi,trầm hương..,nền nông nghiệp trồng lúa nước nổi tiếng đông nam á,sản suất gốm sứ sa huỳnh,điêu khắc,dệt thổ cẫm,công nghiệp sx đồng, đồng thau phát triển rực rỡ,đội tàu thuyền hùng mạnh cung cấp hàng hóa cho một vùng rông lớn Đông á và tây á. Quảng lí một vùng biển champa rộng lớn(biển đông)gần 3.500.000km2 .Trong khoảng thời điểm đó, Người Champa rất nổi tiếng trong việc buôn bán các loại gia vị , hồ tiêu và tơ lụa với các nước như Trung Quốc, Ấn độ, Nusantara ( Indonesia, Malaysia, Brunei…ngày nay) và nước Abbasiah ở Baghdad .Vào khoảng thời gian này, người Champa được biết đến với tài đi biển rất giỏi và những thương nhân tài ba.Quân đội gồm những đội tượng binh hằng ngàn voi chiến,đội thuyền chiến hùng hậu,đẩy lui các cuộc xâm lược ngoại bang khmer và đại việt trong thời gian trị vì,bảo vệ đất nước.Năm 1360, Trà Hoa Bồ Đề qua đời, em Chế A Năng là Po Binasor (Po Bhinethuor) được triều thần tôn lên làm vua, hiệu Chế Bồng Nga (Che Bonguar). Chế Bồng Nga là một vị tướng tài, chỉ huy nhiều trận đánh vào lãnh thổ Đại Việt. Vừa lên ngôi, ông liền tổ chức lại quân đội, chuẩn bị chiến tranh với nhà Trần nhằm chiếm lại những phần lãnh thổ bị mất. Những tù trưởng và bộ lạc trên Tây Nguyên theo Chế Bồng Nga rất đông.
Từ 1360 đến 1370, quân Champa ra vào lãnh thổ Đại Việt như chốn không người. Dân cư Đại Việt lập nghiệp dọc các vùng bờ biển Bố Chánh, Tân Bình, Thuận Hóa (Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên) sinh sống rất khổ sở trước nạn binh đao. Từ 1371 đến 1383, quân Champa đã ba lần chiếm đóng Thăng Long và năm 1390 lúc đang tiến vào Thăng Long lần thứ tư thì Chế Bồng Nga bị tử trận, chấm dứt một trang sử anh hùng.
Nét đặc biệt của Chế Bồng Nga là mỗi lần đánh
phá xong, ông cho rút quân về bên kia đèo Hải Vân chứ không cho người ở lại quản
trị trực tiếp những vùng đất vừa bị chiếm như những vua trước, vì người Champa
tin rằng trấn đóng những vùng đất lạ sẽ mang tai họa và cũng không muốn bị hao
tổn lực lượng bởi những hành động kháng chiến. Tuy vậy vẫn có thể nói trong
vòng 30 năm, Chế Bồng Nga đã khôi phục lại những vùng đã mất từ hơn 300 năm trước
đó (Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh bị mất năm 1069, châu Ô, châu Rí năm 1306).
Chế Bồng Nga chết, quân Champa như rắn không đầu liền bị rối loạn, quân
Trần sát hại rất nhiều. Các vùng đất dưới ảnh hưởng Champa đều được thu hồi. Lê
Quí Ly (tức Hồ Quí Ly sau này) kinh lý các vùng đất Hóa châu và Thuận châu, tổ
chức lại việc phòng thủ và cho xây dựng lại những nơi bị tàn phá. Phan Mãnh được
bổ nhiệm cai trị hai xứ Tân Bình (Quảng Bình) và Thuận Hóa (Quảng Trị và Thừa
Thiên). Nhà Trần đưa dân chúng từ các vùng trung du, vùng đồng bằng sông Hồng
và sông Mã vào định cư tại Tân Bình và Thuận Hóa.
Triều vương thứ mười ba (1390-1458) :
Bị đánh bại năm 1390, tướng La Khải (Ko Cheng) chiếm được xác Chế Bồng Nga mang đi hỏa táng, rồi thu quân về nước. Về Đồ Bàn, La Khải liền xưng vương và chịu triều cống nhà Trần trở lại. Năm 1391, La Khải xin nhà Minh thừa nhận nhưng đến năm 1413 con của ông là Ba Đích Lại mới được nhà Minh tấn phong.
Chính sách cai trị khắt khe của La Khải gây bất mãn trong nước. Vây cánh của Chế Bồng Nga đều bị La Khải thay bằng những tướng sĩ thân tín, con trai của Chế Bồng Nga tên Chế Ma Nô Dã Na cùng em là Chế San Nô sợ bị ám hại đã chạy qua Đại Việt xin tị nạn. Cả hai được nhà Trần phong tước Hiệu chính hầu. Năm 1397, một hoàng thân tên Chế Đà Biệt, em là Mộ Hoa, con là Gia Diếp cùng toàn thể gia quyến sang Đại Việt tị nạn. Chế Đà Biệt được Lê Quí Ly giao trọng trách bảo vệ biên giới phía nam của Đại Việt đề phòng những cuộc tấn công mới của quân Champa. Năm 1400, La Khải mất, con là Ba Đích Lại (Jaya Sinhavarman V) lên ngôi.
Tại Đại Việt, năm 1400 Lê Quí Ly lên ngôi vua, đổi thành họ Hồ. Cũng nên biết, lúc nhà Trần suy yếu vai trò của Lê Quí Ly trở nên nổi bật và trực tiếp điều khiển triều đình từ 1372. Vì thiếu sự chính thống, Hồ Quí Ly thường ra oai bằng cách tấn công Champa và các lãnh thổ Chiêm Động (nay là Thăng Bình, Quảng Nam, hay bắc Amavarati), Cổ Lũy (nay là Tư Nghĩa (Quảng Ngãi), Bạt Đạt Gia, Hắc Bạch (nam Quảng Ngãi, bắc Bình Định) và Sa Lý Nha (tức Sa Huỳnh) lần lượt bị sát nhập từ 1400 đến 1403. Vựa lúa lớn nhất Bắc Champa bị mất hẳn, toàn bộ đất đai tại Indrapura và Amaravati (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam và Quảng Ngãi) cũng không còn. Những vùng đất mới được phân thành châu Thăng, châu Hoa, châu Tư và châu Nghĩa ; bốn châu mới này họp lại thành lộ Thăng Hoa do một quan an phủ sứ cai trị, chỗ giáp giới đặt thành trấn Tân Ninh. Chế Ma Nô Dã Na (con Chế Bồng Nga), lúc đầu làm Thăng Hoa quận vương để chiêu dụ dân chúng Chăm, sau được phong Cổ Lũy thượng hầu giữ hai châu Tư và Nghĩa. Quí Ly đưa những nông dân cùng gia đình không có đất cày từ những châu khác ở phía bắc vào khai phá đất mới. Người Champa không chấp nhận sống dưới sự cai trị của người Việt bỏ đi lên núi hoặc về Vijaya (Đồ Bàn) lập nghiệp.
Năm 1403, Ba Đích Lại yêu cầu nhà Minh can thiệp để đòi lại Indrapura và Amavarati, nhưng bị nhà Hồ từ chối. Chỉ khi nhà Hồ bị dẹp và nước Đại Ngu bị nhà Minh đô hộ, từ 1407 đến 1427, Champa mới phục hồi lại sức mạnh quân sự và những vùng đất đã mất dưới tay nhà Hồ đều lấy lại được.
Năm 1407, hoàng tử Ngauk Glaun Vijaya (con Ba Đích Lại) cất quân đánh Đại Việt, giết quan trấn thủ lộ Thăng Hoa là Chế Ma Nô Dã Na (con của Chế Bồng Nga). Ba Đích Lại được nhà Minh phong vương năm 1413. Mặc dù vậy, dân chúng Champa không muốn di dân lên những vùng đất vừa chiếm lại lập nghiệp, chỉ một số người muốn trở về để giữ gìn hương hỏa mà thôi. Dẹp yên phía Bắc, Ba Đích Lại mang quân xuống tấn công vương quốc Chân Lạp phía nam đang suy yếu, vì bị Xiêm La đánh phá liên tục. Quân Champa chiếm được nhiều vùng đất lớn dọc sông Đồng Nai và trên đồng bằng sông Cửu Long. Quân Khmer bị đuổi tới thành phố Chantabun, gần biên giới Xiêm La, vua Chau Ponea Yat phải cầu cứu nhà Minh và quân Minh đã hai lần tiến vào Champa (1408 và 1414) làm áp lực Champa mới chịu rút quân, Chân Lạp thoát nạn đô hộ. Mặc dầu vậy, quân Champa cũng chiếm được thị trấn Nagara Brah Kanda (thị xã Biên Hòa ngày nay).
Năm 1428, Lê Lợi đuổi được quân Minh ra khỏi lãnh thổ và lên ngôi vua, hiệu Thánh Tổ. Trước thế lực của nhà Lê, Ba Đích Lại trả những vùng đất đã chiếm dưới thời nhà Minh, đổi thành lộ Thuận Hóa thuộc đạo Hải Tây và đặt quan cai trị. Việc giao hảo giữa Champa và Đại Việt trở nên tốt đẹp.
Năm 1433 Lê Lợi mất, con là Nguyên Long, 11 tuổi, lên ngôi hiệu Thái Tôn, Ba Đích Lại liền trở mặt. Năm 1434, ông cho quân sang đánh phá các vùng đất (Hóa châu) vừa giao trả trước đó, vua Lê phải cử Lê Khôi và Lê Chiếc ra dẹp, vua Champa mới chịu triều cống trở lại.
Thật ra từ 1390 đến 1433 Champa không có vua, đất nước lâm vào cảnh nội loạn. Đối với người Champa, La Khải và Ba Đích Lại chỉ là những kẻ soán ngôi. Năm 1433, quần thần Champa đưa công chúa Po Sahnar về miền Nam cai trị (Panduranga), đóng đô tại Phan Rí, không tuân lệnh Vijaya. Hoàng tử Nauk Glaun Vijaya thân chinh đi đánh dẹp, gây nhiều thù oán với các dòng vương tôn Champa phía nam như bắt công chúa Po Sahnar về giam tại Vijaya. Chính vì thế năm 1441 khi Ba Đích Lại qua đời, Nauk Glaun Vijaya không được triều thần cho nối ngôi mà đưa người cháu của cố vương là Maha Kilai (Mã Kha Qui Lai) lên thay. Chú của tân vương là Po Parichanh tự đứng ra nhiếp chính, rồi tự xưng vương năm 1442, hiệu Bí Cai (Maha Vijaya) và được nhà Minh công nhận.
Vừa lên ngôi, Bí Cai liền mang quân tấn công nhà Lê và bị đánh bại. Vua Lê Nhân Tôn tiến chiếm Phật Thành (còn gọi là Đồ Bàn, Chà Bàn, Vijaya) bắt được nhiều vương tôn Champa, trong đó có công chúa Po Sahnar, rồi rút về. Ba Đích Lại cùng hoàng gia phải chạy lên núi trốn trong những buôn làng của người tây nguyên như Trà Toàn (Po Ka Prah), Trà Toại (Po Ka Prih). Kinh đô Phật Thành (Vijaya) bị nhà Lê đổi thành Đồ Bàn.
Trong hai năm 1444 và 1445, Bí Cái nhiều lần dẫn quân tiến vào Hóa châu nhưng đều bị đẩy lùi. Năm 1446, được Maha Quí Lai hướng dẫn, quân Lê chiếm thành Đồ Bàn, bắt sống Bí Cai và tất cả phi tần đem về Thăng Long. Maha Quí Lai được nhà Lê tôn lên làm vua Champa và chịu triều cống, quan hệ giữa hai nước tốt đẹp trở lại. Năm 1448, Lê Nhân Tôn đánh dẹp các lực lượng Thượng do những hoàng tôn Champa lãnh đạo, chiếm xứ Bồn Man (Djarai-Kontum) và đặt thành châu Quy Hợp rồi giao cho một vương tôn Champa thần phục nhà Lê cai quản.
Năm 1449 Maha Quí Lai bị người em tên Bí Do (Maha Kido) bắt giam rồi xưng vương. Bí Do sai Giao Nể Mỗ và Bàng Thoan sang Đại Việt báo tin, vua Lê không những không công nhận mà còn khiển trách nặng nề. Sau biến cố này, Bí Do đuổi 70 gia đình Việt định cư tại Champa về nước rồi ngưng luôn việc xin tấn phong. Năm 1452, Quí Lai mất, Bí Do sai sứ sang Trung Hoa xin nhà Minh công nhận và được phong vương năm 1457.
Triều vương thứ mười bốn (1458-1471) :
Năm 1458 thái tử Po Tam (Po Dam hay Po Kathit), con Bí Cai, giết Bí Do rồi tự xưng vương, hiệu Bàn La Trà Nguyệt (Maha Banla Tranguyet). Năm 1460, Trà Nguyệt nhường ngôi cho em là Po Kaprah, hiệu Bàn La Trà Toàn (Maha Tratoan). Trà Toàn cử người sang Đại Việt xin tấn phong nhưng bị nhà Lê buộc dâng phẩm vật triều cống nên Trà Toàn tức giận. Trong hai năm 1468 và 1469, Trà Toàn vừa cho người sang cầu viện nhà Minh vừa mang đại quân (100.000 người) sang chiếm Hóa châu (1469-1471).
Tức giận trước sự khiêu khích này, vua Lê Thánh Tôn quyết định phạt Champa một lần cho đích đáng. Trước khi ra quân, ngày 6-10-1471, nhà vua đọc hịch Bình Chiêm trước ba quân, lời lẽ rất đanh thép, rồi cho sứ sang Trung Hoa báo cáo sự xâm phạm lãnh thổ của Champa. Lê Thánh Tôn cất đại quân hơn 250.000 người sang đánh Champa, trong đó 100.000 đi bằng đường thủy, 150.000 đi bằng đường bộ. Đại quân nhà Lê chiếm cửa Thị Nại rồi tiến về Đồ Bàn. Trà Toàn sai em là Po Kaprih dẫn đội tượng binh gồm 5.000 người ra đối chọi nhưng bị đánh bại, Trà Toàn rút vào cố thủ thành Đồ Bàn.
Thành Vijaya thất thủ vào ngày 2 tháng 3 năm 1471 sau bốn ngày giao tranh. Vua Champa là Trà Toàn bị bắt sống và tự sát trên đường chở về Thăng Long.(05/03/ Al) Trong cuộc tiếp kiến, Trà Toàn xin vua Lê chỉ làm tội một mình ông và tha cho con cái gồm 10 người. Trên đường về tới Nghệ An, Trà Toàn tự tử chết. Lê Thánh Tôn sai cắt đầu Trà Toàn treo ở đầu thuyền và cho khắc chữ "Cổ Chiêm Thành ngươn ác Trà Toàn chi thủ". Ít nhất hơn 60.000 người Chăm bị giết và 30.000 bị bắt làm nô tỳ cho quân Đại Việt. Kinh thành Vijaya bị phá hủy hoàn toàn.Đây là cuộc tàn sát đẫm máu nhất của đại việt với champa. Hoàng tộc champa chạy sang Malacca (khoảng 20.000 trốn thoát bằng thuyền qua cửa đầm Thị Nại, trong đó có con vua Trà Toàn là Indravarman và Bàn la trà ko lai(Pau liang). Sau cuộc chính biến lịch sử
này rất nhiều người di cư chính trị Champa đã đến các vùng đất Mã Lai an bình ,
một số khác thì tới Melaka . Cũng trong đoàn người di cư đó là hai hoàng tử con
vua Champa Trà Toàn , đó là Indravarman và Pau Liang như đã nói ở trên. Bằng chứng được
tìm thấy chứng minh sự gắn kết lịch sử giữa Champa và Mã Lai là Al-kisah 29
trong đó đã kể lại câu chuyện về một người Nakhoda Champa có tên là Sayyid
Ahmad đã làm bạn cùng Hang Tuah( một anh hùng rất nổi tiếng trong lịch sử Mã
Lai) và cùng đến Inderapura (Pahang_Malaysia) để trốn Tun Teja đến Melaka. Sức
mạnh Champa được chứng minh là lớn hơn cả vùng Pahang sau khi được giúp đỡ của
người anh hùng Melaka trốn khỏi Tun Teja. sự có mặt của Nakhoda Champa tại
Melaka và Pahang này lại được chứng minh bằng một cơ sở chắc chắn sau khi tìm
được trong Al-kisah ke-34 nói về cuộc hôn nhân giữa một công chúa thuộc dòng tộc
Champa với một quy tộc ở Melaka.( theo Sejarah Melayu
Champa, nguyên văn: "Ban La Tra Toan memerintah di ibu kota Sri Vini (Sri Raja Than Ton).
Setelah Kota Vijaya jatuh. Raja Champa pun mati terbunuh. Dengan kejatuhanibu
ota Vijaya ini ramai pelarian politik Cham yang menuju ke daerah Melayu yang
selamatk, antara lain ke Melaka. Yang termasuk dalam pelarian itu ialah dua
orang putera raja Champa, iaitu Indravarman dan Pau Liang di atas. Gambaran
Sejarah Melayu tentang Champa terdapat dalam Al-Kisah ke29 yang menceritakan
seorang Nakhoda Champa yang bernama Sayyid Ahmad bersahabat dengan Hang Tuah
pergi ke Inderapura (Pahang) untuk melarikan Tun Teja Ke Melaka. Kekuatan
Champa berdasarkan fakta jelas lebih besar daripada perahu Pahang hingga dapat
menolong pahlawan Melaka itu melarikan Tun Teja. Kehadiran tokoh Nakhoda Champa di
Melaka dan di Pahang dapat dihubungkan pula dengan wujudnya pedagang Champa di
Banten seperti yang diceritakan oleh Sejarah Melayu dalam Al-Kisah ke-34
menceritakan perkahwinan seorang puteri keturunan Champa dengan anak seorang
pembesar Melaka."), khoảng 30000
người chạy sang lào và campuchia sau cuộc tàn sát đẫm máu này.Lê Thánh Tôn giải
tán vương quốc Champa. Thủ đô chính trị, hành chánh và tín ngưỡng của vương quốc
Bắc Champa .Vijaya bị đổi thành Đồ Bàn và cấm người Champa đến cư ngụ.
Bị đánh bại năm 1390, tướng La Khải (Ko Cheng) chiếm được xác Chế Bồng Nga mang đi hỏa táng, rồi thu quân về nước. Về Đồ Bàn, La Khải liền xưng vương và chịu triều cống nhà Trần trở lại. Năm 1391, La Khải xin nhà Minh thừa nhận nhưng đến năm 1413 con của ông là Ba Đích Lại mới được nhà Minh tấn phong.
Chính sách cai trị khắt khe của La Khải gây bất mãn trong nước. Vây cánh của Chế Bồng Nga đều bị La Khải thay bằng những tướng sĩ thân tín, con trai của Chế Bồng Nga tên Chế Ma Nô Dã Na cùng em là Chế San Nô sợ bị ám hại đã chạy qua Đại Việt xin tị nạn. Cả hai được nhà Trần phong tước Hiệu chính hầu. Năm 1397, một hoàng thân tên Chế Đà Biệt, em là Mộ Hoa, con là Gia Diếp cùng toàn thể gia quyến sang Đại Việt tị nạn. Chế Đà Biệt được Lê Quí Ly giao trọng trách bảo vệ biên giới phía nam của Đại Việt đề phòng những cuộc tấn công mới của quân Champa. Năm 1400, La Khải mất, con là Ba Đích Lại (Jaya Sinhavarman V) lên ngôi.
Tại Đại Việt, năm 1400 Lê Quí Ly lên ngôi vua, đổi thành họ Hồ. Cũng nên biết, lúc nhà Trần suy yếu vai trò của Lê Quí Ly trở nên nổi bật và trực tiếp điều khiển triều đình từ 1372. Vì thiếu sự chính thống, Hồ Quí Ly thường ra oai bằng cách tấn công Champa và các lãnh thổ Chiêm Động (nay là Thăng Bình, Quảng Nam, hay bắc Amavarati), Cổ Lũy (nay là Tư Nghĩa (Quảng Ngãi), Bạt Đạt Gia, Hắc Bạch (nam Quảng Ngãi, bắc Bình Định) và Sa Lý Nha (tức Sa Huỳnh) lần lượt bị sát nhập từ 1400 đến 1403. Vựa lúa lớn nhất Bắc Champa bị mất hẳn, toàn bộ đất đai tại Indrapura và Amaravati (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam và Quảng Ngãi) cũng không còn. Những vùng đất mới được phân thành châu Thăng, châu Hoa, châu Tư và châu Nghĩa ; bốn châu mới này họp lại thành lộ Thăng Hoa do một quan an phủ sứ cai trị, chỗ giáp giới đặt thành trấn Tân Ninh. Chế Ma Nô Dã Na (con Chế Bồng Nga), lúc đầu làm Thăng Hoa quận vương để chiêu dụ dân chúng Chăm, sau được phong Cổ Lũy thượng hầu giữ hai châu Tư và Nghĩa. Quí Ly đưa những nông dân cùng gia đình không có đất cày từ những châu khác ở phía bắc vào khai phá đất mới. Người Champa không chấp nhận sống dưới sự cai trị của người Việt bỏ đi lên núi hoặc về Vijaya (Đồ Bàn) lập nghiệp.
Năm 1403, Ba Đích Lại yêu cầu nhà Minh can thiệp để đòi lại Indrapura và Amavarati, nhưng bị nhà Hồ từ chối. Chỉ khi nhà Hồ bị dẹp và nước Đại Ngu bị nhà Minh đô hộ, từ 1407 đến 1427, Champa mới phục hồi lại sức mạnh quân sự và những vùng đất đã mất dưới tay nhà Hồ đều lấy lại được.
Năm 1407, hoàng tử Ngauk Glaun Vijaya (con Ba Đích Lại) cất quân đánh Đại Việt, giết quan trấn thủ lộ Thăng Hoa là Chế Ma Nô Dã Na (con của Chế Bồng Nga). Ba Đích Lại được nhà Minh phong vương năm 1413. Mặc dù vậy, dân chúng Champa không muốn di dân lên những vùng đất vừa chiếm lại lập nghiệp, chỉ một số người muốn trở về để giữ gìn hương hỏa mà thôi. Dẹp yên phía Bắc, Ba Đích Lại mang quân xuống tấn công vương quốc Chân Lạp phía nam đang suy yếu, vì bị Xiêm La đánh phá liên tục. Quân Champa chiếm được nhiều vùng đất lớn dọc sông Đồng Nai và trên đồng bằng sông Cửu Long. Quân Khmer bị đuổi tới thành phố Chantabun, gần biên giới Xiêm La, vua Chau Ponea Yat phải cầu cứu nhà Minh và quân Minh đã hai lần tiến vào Champa (1408 và 1414) làm áp lực Champa mới chịu rút quân, Chân Lạp thoát nạn đô hộ. Mặc dầu vậy, quân Champa cũng chiếm được thị trấn Nagara Brah Kanda (thị xã Biên Hòa ngày nay).
Năm 1428, Lê Lợi đuổi được quân Minh ra khỏi lãnh thổ và lên ngôi vua, hiệu Thánh Tổ. Trước thế lực của nhà Lê, Ba Đích Lại trả những vùng đất đã chiếm dưới thời nhà Minh, đổi thành lộ Thuận Hóa thuộc đạo Hải Tây và đặt quan cai trị. Việc giao hảo giữa Champa và Đại Việt trở nên tốt đẹp.
Năm 1433 Lê Lợi mất, con là Nguyên Long, 11 tuổi, lên ngôi hiệu Thái Tôn, Ba Đích Lại liền trở mặt. Năm 1434, ông cho quân sang đánh phá các vùng đất (Hóa châu) vừa giao trả trước đó, vua Lê phải cử Lê Khôi và Lê Chiếc ra dẹp, vua Champa mới chịu triều cống trở lại.
Thật ra từ 1390 đến 1433 Champa không có vua, đất nước lâm vào cảnh nội loạn. Đối với người Champa, La Khải và Ba Đích Lại chỉ là những kẻ soán ngôi. Năm 1433, quần thần Champa đưa công chúa Po Sahnar về miền Nam cai trị (Panduranga), đóng đô tại Phan Rí, không tuân lệnh Vijaya. Hoàng tử Nauk Glaun Vijaya thân chinh đi đánh dẹp, gây nhiều thù oán với các dòng vương tôn Champa phía nam như bắt công chúa Po Sahnar về giam tại Vijaya. Chính vì thế năm 1441 khi Ba Đích Lại qua đời, Nauk Glaun Vijaya không được triều thần cho nối ngôi mà đưa người cháu của cố vương là Maha Kilai (Mã Kha Qui Lai) lên thay. Chú của tân vương là Po Parichanh tự đứng ra nhiếp chính, rồi tự xưng vương năm 1442, hiệu Bí Cai (Maha Vijaya) và được nhà Minh công nhận.
Vừa lên ngôi, Bí Cai liền mang quân tấn công nhà Lê và bị đánh bại. Vua Lê Nhân Tôn tiến chiếm Phật Thành (còn gọi là Đồ Bàn, Chà Bàn, Vijaya) bắt được nhiều vương tôn Champa, trong đó có công chúa Po Sahnar, rồi rút về. Ba Đích Lại cùng hoàng gia phải chạy lên núi trốn trong những buôn làng của người tây nguyên như Trà Toàn (Po Ka Prah), Trà Toại (Po Ka Prih). Kinh đô Phật Thành (Vijaya) bị nhà Lê đổi thành Đồ Bàn.
Trong hai năm 1444 và 1445, Bí Cái nhiều lần dẫn quân tiến vào Hóa châu nhưng đều bị đẩy lùi. Năm 1446, được Maha Quí Lai hướng dẫn, quân Lê chiếm thành Đồ Bàn, bắt sống Bí Cai và tất cả phi tần đem về Thăng Long. Maha Quí Lai được nhà Lê tôn lên làm vua Champa và chịu triều cống, quan hệ giữa hai nước tốt đẹp trở lại. Năm 1448, Lê Nhân Tôn đánh dẹp các lực lượng Thượng do những hoàng tôn Champa lãnh đạo, chiếm xứ Bồn Man (Djarai-Kontum) và đặt thành châu Quy Hợp rồi giao cho một vương tôn Champa thần phục nhà Lê cai quản.
Năm 1449 Maha Quí Lai bị người em tên Bí Do (Maha Kido) bắt giam rồi xưng vương. Bí Do sai Giao Nể Mỗ và Bàng Thoan sang Đại Việt báo tin, vua Lê không những không công nhận mà còn khiển trách nặng nề. Sau biến cố này, Bí Do đuổi 70 gia đình Việt định cư tại Champa về nước rồi ngưng luôn việc xin tấn phong. Năm 1452, Quí Lai mất, Bí Do sai sứ sang Trung Hoa xin nhà Minh công nhận và được phong vương năm 1457.
Triều vương thứ mười bốn (1458-1471) :
Năm 1458 thái tử Po Tam (Po Dam hay Po Kathit), con Bí Cai, giết Bí Do rồi tự xưng vương, hiệu Bàn La Trà Nguyệt (Maha Banla Tranguyet). Năm 1460, Trà Nguyệt nhường ngôi cho em là Po Kaprah, hiệu Bàn La Trà Toàn (Maha Tratoan). Trà Toàn cử người sang Đại Việt xin tấn phong nhưng bị nhà Lê buộc dâng phẩm vật triều cống nên Trà Toàn tức giận. Trong hai năm 1468 và 1469, Trà Toàn vừa cho người sang cầu viện nhà Minh vừa mang đại quân (100.000 người) sang chiếm Hóa châu (1469-1471).
Tức giận trước sự khiêu khích này, vua Lê Thánh Tôn quyết định phạt Champa một lần cho đích đáng. Trước khi ra quân, ngày 6-10-1471, nhà vua đọc hịch Bình Chiêm trước ba quân, lời lẽ rất đanh thép, rồi cho sứ sang Trung Hoa báo cáo sự xâm phạm lãnh thổ của Champa. Lê Thánh Tôn cất đại quân hơn 250.000 người sang đánh Champa, trong đó 100.000 đi bằng đường thủy, 150.000 đi bằng đường bộ. Đại quân nhà Lê chiếm cửa Thị Nại rồi tiến về Đồ Bàn. Trà Toàn sai em là Po Kaprih dẫn đội tượng binh gồm 5.000 người ra đối chọi nhưng bị đánh bại, Trà Toàn rút vào cố thủ thành Đồ Bàn.
Thành Vijaya thất thủ vào ngày 2 tháng 3 năm 1471 sau bốn ngày giao tranh. Vua Champa là Trà Toàn bị bắt sống và tự sát trên đường chở về Thăng Long.(05/03/ Al) Trong cuộc tiếp kiến, Trà Toàn xin vua Lê chỉ làm tội một mình ông và tha cho con cái gồm 10 người. Trên đường về tới Nghệ An, Trà Toàn tự tử chết. Lê Thánh Tôn sai cắt đầu Trà Toàn treo ở đầu thuyền và cho khắc chữ "Cổ Chiêm Thành ngươn ác Trà Toàn chi thủ". Ít nhất hơn 60.000 người Chăm bị giết và 30.000 bị bắt làm nô tỳ cho quân Đại Việt. Kinh thành Vijaya bị phá hủy hoàn toàn.Đây là cuộc tàn sát đẫm máu nhất của đại việt với champa. Hoàng tộc champa chạy sang Malacca (khoảng 20.000 trốn thoát bằng thuyền qua cửa đầm Thị Nại, trong đó có con vua Trà Toàn là Indravarman và Bàn la trà ko lai(
Em Trà Toàn là Po Kaprih dẫn theo một số
tàn quân trốn lên xứ Bồn Man (cao nguyên Kontum-Darlac), được dân chúng tôn lên
làm vua. Po Kaprih xưng hiệu Trà Toại và cho người sang Trung Hoa cầu cứu nhà
Minh, báo cáo tình hình của Champa. Lê Thánh Tôn sai Lê Niệm mang 30.000 quân
lên Tây Nguyên lùng bắt Trà Toại đem về trị tội.
Nhà Minh không tán thành việc Đại Việt
chiếm đóng Champa nhưng không dám can thiệp trực tiếp, kể cả việc xin phóng
thích Trà Toàn và hoàng gia Champa. Năm 1472 nhân vua Lê Thánh Tôn sai sứ sang
Trung Hoa báo cáo sự tình, Minh Hiển Tông trách cứ việc chiếm đế đô Đồ Bàn. Sau
đó nhà Minh sai sứ sang phong vương cho Trà Toại nhưng khi đến cửa Tân Châu (Quảng
Nam )
quân Lê không cho cập bờ. Lê Thánh Tôn phản đối việc phong vương này và tuyên bố
Champa đã trở thành một châu của Đại Việt : châu Giao Nam . Nhà Lê phong cháu của Trà Toàn
tên Bố Trì Tri (Thái Da) làm vương đất Giao Nam (còn gọi là Phan Long).
1471-1653: Sự thất thủ Kauthara
Ðại Việt đã quyết định dành cho Po Trì Trì quyền cai trị trên lãnh thổ Champa còn lại ở miền nam, tức là vùng Kauthara, Panduranga và vùng Cao Nguyên ở phía tây của Panduranga. Khi đã nhận ân huệ này, Bố Trì Trì cũng tìm cách xin Trung Quốc chính thức hóa vương chức của mình. Tiếc rằng, ông ta chỉ nhận sự trả lời của Trung Quốc sau một thời gian ngắn, trước khi ông ta đã từ trần.
Theo sử liệu của trung Quốc , tiếp theo Bố Trí Trì, có hai vị vua kế tiếp nối ngôi, nhưng sử liệu này không cho biết tên tuổi và năm tháng nhậm chức của họ. Nếu theo biên niên sử Panduranga, vị vua kế vị Bố Trì Trì có thể là Po Kabih (1494-1530), Po Karutdrak (1530-1536), Po Maha Sarak (1536-1541), Po Kunarai (1541-1553),Po At (1553-1579).
Ðại Việt đã quyết định dành cho Po Trì Trì quyền cai trị trên lãnh thổ Champa còn lại ở miền nam, tức là vùng Kauthara, Panduranga và vùng Cao Nguyên ở phía tây của Panduranga. Khi đã nhận ân huệ này, Bố Trì Trì cũng tìm cách xin Trung Quốc chính thức hóa vương chức của mình. Tiếc rằng, ông ta chỉ nhận sự trả lời của Trung Quốc sau một thời gian ngắn, trước khi ông ta đã từ trần.
Theo sử liệu của trung Quốc , tiếp theo Bố Trí Trì, có hai vị vua kế tiếp nối ngôi, nhưng sử liệu này không cho biết tên tuổi và năm tháng nhậm chức của họ. Nếu theo biên niên sử Panduranga, vị vua kế vị Bố Trì Trì có thể là Po Kabih (1494-1530), Po Karutdrak (1530-1536), Po Maha Sarak (1536-1541), Po Kunarai (1541-1553),Po At (1553-1579).
Vương quốc ở miền nam dưới quyền cai trị Po tri tri và những ông vua nối tiếp, vẫn còn mang tên là
Champa trong những sử liệu viết bằng tiếng Chăm và Việt. Nhưng vương quốc
Champa này đã bắt đầu lánh xa dần với truyền thống của Champa theo Ấn Ðộ Giáo ở
miền bắc. Mọi cơ cấu tổ chức hành chánh, chính trị và xã hội của Vương Quốc này đều dựa trên nền tảng cơ bản
riêng biệt của tập tục và tín ngưỡng của địa phương mình .Qua sử liệu còn để lại,
nền văn minh của vương quốc Champa “mới” này chỉ là một sự tổng hợp của ba truyền
thống tín ngưỡng khác biệt, đó là di sản văn hóa cổ truyền địa phương của
Panduranga và Kauthara, một số ảnh hưởng còn dư lại của tín ngưỡng Bà La Môn
Giáo, và nhất là từ thế kỷ thứ 17,tín ngưỡng Hồi Giáo du nhập vào ở các hải cảng
vùng Panduranga và
Kauthara.
Qua ngày từ trần của Lê Thánh Tông vào năm 1497, Ðại Việt lại rơi vào nội chiến giữa chúa Trịnh cai trị miền bắc và chúa Nguyễn, tự xưng vương và đặt thủ đô của mình ở gần khu vực Huế bây giờ. Chính chúa Nguyễn mới là tác giả chính thức của chính sách “Nam Tiến” chủ yếu để di chuyển tối đa biên giới của mình về miền nam của Champa . Ngược lại, với những gì mà nhiều nhà nghiên cứu thường nêu ra, cuộc “Nam Tiến” của chúa Nguyễn đã gặp một sức kháng cự mãnh liệt của các nhà lãnh đạo Champa “mới” này. Ngoài chính sách đương đầu chống lại “Nam Tiến” của chúa Nguyễn, vương quốc Champa cũng mấy lần áp dụng chính sách “Bắc Tiến”, thí dụ vào năm 1578, cho tới Phú Yên để thu hồi lại một thành lũy đã rơi vào tay nhà Nguyễn.
Vào cuối thế kỷ thứ 16, Champa “mới” bao gồm một dải đất chạy dài từ biên giới Saigon đến đèo Cù Mông (phía nam Bình Ðịnh) vẫn còn đủ điều kiện để nuôi dưỡng một đoàn quân khá hùng mạnh. Chính vì thế, vào năm 1594, vua Champa, (dường như đã theo Hồi Giáo), đã gởi một đoàn quân sang giúp vua Johor, một tiểu vương quốc ở miền nam bán đảo Mã Lai, để chống lại thực dân Bồ Ðào Nha ở Malaka. Chính nhờ quân lực hùng mạnh này, Po Nit (1603-1613) đã quyết định xuất trận tiến đánh QuảngNam , một khu vực hành chánh nằm
trong lãnh thổ của nhà Nguyễn. Trước hành động này, chúa Nguyễn cũng xuất quân
để chinh phạt Champa. Thừa cơ hội chiến thắng, chúa Nguyễn xâm chiếm khu vực
Phú Yên và dời biên giới phía nam của mình đến Cap Varella, ở phía bắc Nha
Trang. Sau đó, chúa Nguyễn biến đổi lãnh thổ này thành Dinh Trấn Biên và đưa
hơn ba chục ngàn tù binh của nhà Trịnh sang khu vực này để phát hoang khai triển
kinh tế.
Dẫu thất bại, Champa “mới” vẫn giữ nguyên được truyền thống bất khuất của Champa, đó là truyền thống đấu tranh để bảo vệ quyền độc lập, và nhất là sự sống còn của quốc gia này. Chính vì thế, vương quốc Champa không ngần ngại tiến quân chống lại sự xâm lược của nhà Nguyễn ở Dinh Trấn Biên (Phú Yên) vào năm 1620. Vào khoảng ba chục năm sau, tức là năm 1653, vua Champa là Po Nraop chuẩn bị lực lượng quân sự của mình để tuyên chiến với chúa Nguyễn, thu phục lại khu vực Phú Yên bị rơi vào tay của Nguyễn vào năm 1611. Trước tình thế này, chúa Nguyễn đã gởi một đoàn quân hùng mạnh sang tấn công Champa, tiến đến sông Phan Rang, bắt được vua Po Nraop và cưỡng bách vua này ngồi trong rọ bằng sắt để đưa về Huế. Vì không chịu để cho nhà Nguyễn hành xử mình, Po Nraop quyết định tự hủy thân để nêu cao tinh thần bất khuất của mình. Nhân cơ hội này, chúa Nguyễn cũng xâm chiếm vùng Nha Trang và dời biên giới của mình đến khu vực Cam-ranh . Thế là tiểu vương quốc Kauthara lại rơi vào tay nhà Nguyễn vào năm 1653 và khu vực này bị biến đổi thành Dinh Thái Khang và Diên Khánh trong hệ thống hành chánh nhà Nguyễn .
Kauthara thất thủ, đền thiêng liêng của Po Ina Nagar “Bà Mẹ Vương Quốc” ở Nha Trang lọt vào vòng kiểm soát của nhà Nguyễn. Chính vì thế, vua Champa quyết định rước Po Ina Nagar về Phan Rang để được thờ phụng trong một cái đền ở Mông Ðức gần làng Hữu Ðức bây giờ.
Kể từ năm 1653, đất đai Champa tự thu hẹp lại trong lãnh địa của tiểu vương quốc Panduranga, mà nhà sử học thường gọi là vương quốc Panduranga-Champa.
Qua ngày từ trần của Lê Thánh Tông vào năm 1497, Ðại Việt lại rơi vào nội chiến giữa chúa Trịnh cai trị miền bắc và chúa Nguyễn, tự xưng vương và đặt thủ đô của mình ở gần khu vực Huế bây giờ. Chính chúa Nguyễn mới là tác giả chính thức của chính sách “Nam Tiến” chủ yếu để di chuyển tối đa biên giới của mình về miền nam của Champa . Ngược lại, với những gì mà nhiều nhà nghiên cứu thường nêu ra, cuộc “Nam Tiến” của chúa Nguyễn đã gặp một sức kháng cự mãnh liệt của các nhà lãnh đạo Champa “mới” này. Ngoài chính sách đương đầu chống lại “Nam Tiến” của chúa Nguyễn, vương quốc Champa cũng mấy lần áp dụng chính sách “Bắc Tiến”, thí dụ vào năm 1578, cho tới Phú Yên để thu hồi lại một thành lũy đã rơi vào tay nhà Nguyễn.
Vào cuối thế kỷ thứ 16, Champa “mới” bao gồm một dải đất chạy dài từ biên giới Saigon đến đèo Cù Mông (phía nam Bình Ðịnh) vẫn còn đủ điều kiện để nuôi dưỡng một đoàn quân khá hùng mạnh. Chính vì thế, vào năm 1594, vua Champa, (dường như đã theo Hồi Giáo), đã gởi một đoàn quân sang giúp vua Johor, một tiểu vương quốc ở miền nam bán đảo Mã Lai, để chống lại thực dân Bồ Ðào Nha ở Malaka. Chính nhờ quân lực hùng mạnh này, Po Nit (1603-1613) đã quyết định xuất trận tiến đánh Quảng
Dẫu thất bại, Champa “mới” vẫn giữ nguyên được truyền thống bất khuất của Champa, đó là truyền thống đấu tranh để bảo vệ quyền độc lập, và nhất là sự sống còn của quốc gia này. Chính vì thế, vương quốc Champa không ngần ngại tiến quân chống lại sự xâm lược của nhà Nguyễn ở Dinh Trấn Biên (Phú Yên) vào năm 1620. Vào khoảng ba chục năm sau, tức là năm 1653, vua Champa là Po Nraop chuẩn bị lực lượng quân sự của mình để tuyên chiến với chúa Nguyễn, thu phục lại khu vực Phú Yên bị rơi vào tay của Nguyễn vào năm 1611. Trước tình thế này, chúa Nguyễn đã gởi một đoàn quân hùng mạnh sang tấn công Champa, tiến đến sông Phan Rang, bắt được vua Po Nraop và cưỡng bách vua này ngồi trong rọ bằng sắt để đưa về Huế. Vì không chịu để cho nhà Nguyễn hành xử mình, Po Nraop quyết định tự hủy thân để nêu cao tinh thần bất khuất của mình. Nhân cơ hội này, chúa Nguyễn cũng xâm chiếm vùng Nha Trang và dời biên giới của mình đến khu vực Cam-ranh . Thế là tiểu vương quốc Kauthara lại rơi vào tay nhà Nguyễn vào năm 1653 và khu vực này bị biến đổi thành Dinh Thái Khang và Diên Khánh trong hệ thống hành chánh nhà Nguyễn .
Kauthara thất thủ, đền thiêng liêng của Po Ina Nagar “Bà Mẹ Vương Quốc” ở Nha Trang lọt vào vòng kiểm soát của nhà Nguyễn. Chính vì thế, vua Champa quyết định rước Po Ina Nagar về Phan Rang để được thờ phụng trong một cái đền ở Mông Ðức gần làng Hữu Ðức bây giờ.
Kể từ năm 1653, đất đai Champa tự thu hẹp lại trong lãnh địa của tiểu vương quốc Panduranga, mà nhà sử học thường gọi là vương quốc Panduranga-Champa.
Thời kỳ 1653-1771: Sự suy yếu của Panduranga
Năm năm sau ngày thất thủ Kauthara (Nha Trang), tức là năm 1658, chúa Nguyễn, lợi dụng sự khủng hoảng chính trị trong nội bộ Campuchia, dùng vũ lực để xâm chiếm khu vực Saigon-Biên Hoà. Sự hiện diện của quân đội nhà Nguyễn ở Saigon đã đưa Panduranga vào địa thế mới, đó là, vương quốc này đã trở thành một khu vực nằm ngay chính giữa lãnh thổ mà nhà Nguyễn đã làm chủ đất đai: Biên Hoà ở phía nam và Nha Trang ở phía bắc. Bị kìm kẹp và bị bao vây, Panduranga-Champa đã mất đi toàn diện những địa thế quân sự trọng yếu của mình.
Năm năm sau ngày thất thủ Kauthara (Nha Trang), tức là năm 1658, chúa Nguyễn, lợi dụng sự khủng hoảng chính trị trong nội bộ Campuchia, dùng vũ lực để xâm chiếm khu vực Saigon-Biên Hoà. Sự hiện diện của quân đội nhà Nguyễn ở Saigon đã đưa Panduranga vào địa thế mới, đó là, vương quốc này đã trở thành một khu vực nằm ngay chính giữa lãnh thổ mà nhà Nguyễn đã làm chủ đất đai: Biên Hoà ở phía nam và Nha Trang ở phía bắc. Bị kìm kẹp và bị bao vây, Panduranga-Champa đã mất đi toàn diện những địa thế quân sự trọng yếu của mình.
Chưa đầy 40 năm làm chủ Biên Hòa, chúa Nguyễn
quyết định tiếp tục áp dụng chính sách “Nam Tiến” của mình. Ðể trả đủa cuộc tấn
công của vua Po Saot nhằm thu hồi lại vùng thánh địa Kauthara (Nha Trang) vào
năm 1692, chúa Nguyễn đưa một đoàn quân hùng mạnh để thanh toán vương quốc này.
Sau khi thắng trận, nhà Nguyễn đổi danh xưng Chiêm Thành (Campapura) thành Trấn
Thuận Thành, đặt dưới quyền cai trị của một ông Tham Mưu của quân viễn chinh
nhà Nguyễn. Một năm sau, nhà Nguyễn xóa bỏ Trấn Thuận Thành để thành lập Phủ
Bình Thuận và giao quyền quản trị phủ này cho em của vua Po Saot .Cuối năm
1692, Panduranga-Champa đã biến mất trên bản đồ Ðông Dương với tính cách là một
quốc gia chủ quyền.Vì không chấp nhận sự hiện diện quân nhà Nguyễn trên lãnh thổ
mình và vì không chấp nhận nhà Nguyễn tự xóa bỏ vương quốc này trên bản đồ,
toàn bộ nhân dân Panduranga-Champa vùng dậy đánh đuổi quân xâm lược trong suốt
hai năm trường, từ 1693-1694. Vì không thể kháng cự lại sự vùng dậy của toàn bộ
nhân dân của vương quốc này, chúa Nguyễn quyết định giao trả lại quyền độc lập
cho Panduranga-Champa, nhưng độc lập dưới sự bảo trợ chính trị và quân sự của
mình. Kể từ đó, danh xưng Thuận Thành đã trở thành thông lệ trong văn bản nhà
Nguyễn để gọi Panduranga-Champa. Khi đã thu hồi độc lập, nhà Nguyễn phong vương
cho Po Saktiraydaputih, em của vua Po Saot và cũng là một tù binh của nhà Nguyễn
trong trận chiến vào năm 1692.
Mặc dù giao trả quyền độc lập cho Panduranga-Champa, nhà Nguyễn quyết định giữ quyền cai trị trực tiếp của mình trên cộng đồng Việt kiều sống trong lãnh thổ Champa. Chính sách này nhằm kiểm soát chặt chẽ mọi biến cố xảy ra ở Panduranga-Champa và nhằm điều động Việt kiều này, khi cần thiết, để gây chiến tranh chống lại vương quốc Champa. Ðể áp dụng chính sách này, nhà Nguyễn thành lập một phủ Bình Thuận rất là đặc biệt trong lãnh thổ Panduranga-Champa vào năm 1697. Theo tư liệu hoàng gia Panduranga viết bằng tiếng Chăm và Hán, kể từ năm 1702, tất cả Việt kiều sống trong Panduranga-Champa không trực thuộc quyền quản trị của vương quốc này, nhưng trực thuộc phủ Bình Thuận của nhà Nguyễn. Phủ Bình Thuận này là một cơ quan đại diện cho nhà Nguyễn, có vai trò để giải quyết với chính quyền Panduranga-Champa mọi vấn đề liên quan đến quyền lợi Việt kiều sống ở vương quốc này.Sự hiện diện của Việt kiều núp sau cái bóng hình của phủ Bình Thuận là nguyên nhân chính yếu đưa đến xự xung đột hàng ngày giữa đồng bào Panduranga-Champa và cộng đồng Việt kiều. Và xự xung đột này thường xảy ra chung quanh vấn đề khủng hoảng đất đai. Vì rằng Việt kiều càng ngày càng mở rộng lãnh thổ của mình, hoặc qua các cuộc mua bán ruộng đất một khi dân tộc Champa bị thiếu nợ, hoặc qua các cuộc chiếm đất bất hợp lệ trong những khu vực hoang vắng. Kể từ đó, Panduranga-Champa không còn biên giới cố định, vì lãnh thổ có một hình dạng như vết dầu loan, nằm xen kẻ trong biên giới của đất đai thuộc phủ Bình Thuận của nhà Nguyễn
Thời kỳ 1771-1832: Những ngày cuối cùng của Champa
Năm 1771 đánh dấu cuộc vùng dậy của Tây Sơn chống lại chế độ bạo tàn của nhà Nguyễn. Công trình đấu tranh của Tây Sơn bắt đầu lan rộng trong khắp nước. Trước tình thế này, nhà Nguyễn từ bỏ thủ đô mình để lui vềẩn náu ở khu vực đồng bằng sông Mékong, chờ đợi thời cơ khôi phục lại đất nước. Kể từ ngày ấy Tây sơn làm chủ miền bắc, còn hoàng tử Nguyễn Ánh của nhà Nguyễn làm chủ miền nam. Thế là Panduranga-Champa, vì địa thế của mình, một lần nữa trở thành nạn nhân của chiến tranh giữa người Việt với người Việt, một cuộc chiến tranh chẳng có gì liên hệ với vương quốc Champa. Theo sử liệu của Việt Nam , mục tiêu tiên quyết của Nguyễn Ánh và Tây Sơn là phải chiếm cho kỳ được Panduranga-Champa để làm nhịp cầu tiến quân chống phá thành Saigon do Nguyễn Ánh trấn giữ hay chống phá Nha Trang dưới sự kiểm soát của Tây Sơn. Làm chủ Panduranga-Champa tức là làm chủ tình hình quân sự trong sự xung đột này. Chính vì thế, kể từ năm 1771 vương quốc Panduranga-Champa đã trở thành một bãi chiến trường khủng khiếp giữa quân Tây Sơn và lực lượng Nguyễn Ánh. Trước biến cố này, sự sống còn của Panduranga-Champa chỉ là một giấc mơ huyền ảo và nó tùy thuộc hoàn toàn vào kết quả của chiến tranh giữa người ViệtNam hơn là tuỳ thuộc vào ý muốn của
mình.
Năm 1802, Nguyễn Ánh đánh bại tàn quân Tây Sơn, làm chủ toàn diện lãnh thổ Việt Nam, sau đó lên ngôi lấy danh hiệu là Gia Long. Khi chiến tranh đã chấm dứt, Gia Long quyết định trao trả lại cho vương quốc Panduranga-Champa, không phải là quyền độc lập, nhưng là quyền tự trị dưới sự bảo hộ của triều đình Huế. Sau đó, Gia Long phong tước cho ong Po Soang Nhung Ceng, một tướng tài gốc người Chăm (tổ tiên bà Thềm ở Phan Rí), đã từng tham gia với Nguyễn Ánh để chống Tây Sơn, quyền cai trị vương quốc này. Mặc dù là một vương quốc tự trị, nhưng Po Saong Nhung Ceng có quyền tuyệt đối trên nhân dân của Panduranga, có quyền thành lập quân đội riêng và quyết định thuế má riêng trong lãnh thổ của mình.Thành hình trong qui chế thuộc địa Việt Nam, nếu Gia Long quyết định cho tái lập lại vương quốc Panduranga-Champa, đó là để tỏ bày sự cám ơn của mình đối với tướng Saong Nhung Ceng đã có công trong công trình đánh đuổi Tây Sơn hơn là bày tỏ ý muốn của mình để vương qưốc Champa này được phục hồi lại . Dù trong hoàn cảnh nào đi nữa, Panduranga-Champa cũng là một vương quốc tự trị dưới sự bảo trợ của Gia Long,nhất là dưới sự che chở tối đa của ông Lê Văn Duyệt, Tổng Trấn Gia Ðịnh Thành.Năm 1802, Gia Long từ trần. Minh Mệnh kế tiếp cha mình để cai trị toàn vẹn ViệtNam .
Sau ngày lên ngôi, Minh Mệnh xóa bỏ tất cả chính sách liên quan đến
Panduranga-Champa do Gia Long để lại, và quyền kiểm soát của Lê Văn Duyệt trên
vương quốc này. Vấn đề này đã dẫn đến sự xung đột giữa Minh Mệnh và Tổng Trấn
Gia Ðịnh Thành. Kể từ ngày ấy, Panduranaga-Champa lại trở thành nạn nhân lần thứ
hai trong biến cố chính trị giữa người Việt Nam . Khi Po Saong Nhung Ceng đã từ
trần ở Champa (chứ không phải ông vua này là người chạy sang Kampuchea lánh nạn như người ta thường
hiểu lầm), Minh Mệnh tự phong tước cho một người Chăm kề cận của mình lên ngôi.
Lê văn Duyệt phản đối lại Minh Mệnh, tự quyết định cho con của Po Saong Nhung
Ceng lên làm vua Panduranga-Champa, để trấn giữ trọn vẹn quyền kiểm soát chính
trị và hành chánh của vương quốc này. Nhiều sử liệu cũng nêu lên rằng, năm 1832
là năm đánh dấu một khúc quanh lịch sử lớn lao trong chính sách bang giao giữa
Panduranga-Champa và triều đình Huế. Nếu từ năm 1822 đến 1828, vương quốc này
trực thuộc dưới quyền kiểm soát của triều đình Huế, nhưng sau năm 1828,
Panduranga-Champa đã trở thành một vương quốc đặt dưới quyền cai trị của Gia Ðịnh
Thành. Chính vì thế, sự sống còn của Panduranga-Cham hôm nay tùy thuộc hẳn vào tư thế mạnh ,yếu của Lê VDuyệt đối với Minh Mệnh.Năm 1832, Lê
Văn Duyệt từ trần. Tức tốc, Minh Mệnh quyết định chiếm đóng Panduranga-Champa,
cho lệnh trừng trị thẳng tay tất cả quan chức nào trong vương quốc đã theo Lê
Văn Duyệt , Minh Mệnh đã áp dụng chính sách tàn bạo chống lại nhân dân Champa
vì tội không chịu phục tùng triều đình Huế. Sau cuộc trừng phạt này, Minh Mệnh
cho lệnh xóa bỏ Panduranga-Champa trên bản đồ Ðông Dương, chia lại đất đai này
thành hai huyện An Phước và Hòa Ða trực thuộc tỉnh Bình Thuận.Thế là, vương quốc
Panduranga-Champa hoàn tàn bị diệt vong vào năm 1832.
1832-1835: Sự vùng dậy cuối cùng
Những chính sách tàn bạo của một số quan chức Minh Mệnh nhằm trừng trị thẳng tay nhân dân Champa vì tội theo Lê Văn Duyệt là nguyên nhân chính yếu giải thích cho sự vùng dậy của dân tộc Champa vào năm 1833. Ðói khát, tù đày, xử trảm không cần lý do, không cần xét xử, tập trung người dân Champa vào lao dịch trong những nông trường kinh tế, đốt cháy làng xã thành tro bụi, v.v. là sự việc diễn ra hàng ngày sau ngày mất nước. Không thể kham nổi những sự khốn khổ này, Katip Sumat, một nhà lãnh đạo tinh thần Hồi Giáo, kêu gọi quần chúng nổi dậy, thành lập một mật trận kháng chiến Hồi Giáo, dùng chiến tranh tử vì đạo (Jihâd) chống lại Minh Mệnh để dành độc lập Champa. Phong trào kháng chiến của Katip Sumat đã trở thành một mối đe dọa lớn cho Minh Mệnh trong khu vực này. Chính thế, ngoài đoàn quân hùng mạnh của triều đình Huế, Minh Mệnh kêu gọi tất cả Việt kiều sống ở đây góp sức để đánh phá toàn diện lực lượng Katip Sumat vào năm 1834.
Nếu sử liệu Việt Nam ít nói đến cuộc nổi dậy của Katip Sumat, thì sử liệu này không bỏ lỡ cơ hội viết về biến cố 1834-1835, biến cố mà triều đình Huế coi đó là một cơ cấu cách mạng mới mang hình thức “Mật Trận Giải Phóng” hơn là hình thức nổi loạn. Ðúng vậy, Ja Thak Wa, người làng Văn Lâm (Ninh Thuận), là một quan chức lớn trong triều Champa thời trước, là người đứng ra thành lập Mật Trận Giải Phóng, và thành lập chính phủ lâm thời để điều hành công cuộc cách mạng giải phóng Champa. Lấy khu Ðồng Nai, nơi mà dân Việt không dám xâm nhập, để làm mật khu. Ông ta đứng ra đề nghị một ông hoàng tử gốc Raglai, dòng Po Romé, lên ngôi của vương quốc. Ông kêu gọi toàn dân Champa, cả anh em cao nguyên và người Chăm cùng đứng dậy chống lại quân xâm lược Minh Mệnh. Sau khi chiếm đóng khu vực Phan rang, ông cho lệnh tiến đánh khu vực Phú Yên và Bình Ðịnh. Tiếc thay, ông bị tử trận ở làng Hữu Ðức (Phan Rang) vào năm 1835. Phong trào của JaThak Wa được coi như là cuộc nổi dậy cuối cùng
sau ngày mất nước của vương quốc Champa vào năm 1832.
Mặc dù giao trả quyền độc lập cho Panduranga-Champa, nhà Nguyễn quyết định giữ quyền cai trị trực tiếp của mình trên cộng đồng Việt kiều sống trong lãnh thổ Champa. Chính sách này nhằm kiểm soát chặt chẽ mọi biến cố xảy ra ở Panduranga-Champa và nhằm điều động Việt kiều này, khi cần thiết, để gây chiến tranh chống lại vương quốc Champa. Ðể áp dụng chính sách này, nhà Nguyễn thành lập một phủ Bình Thuận rất là đặc biệt trong lãnh thổ Panduranga-Champa vào năm 1697. Theo tư liệu hoàng gia Panduranga viết bằng tiếng Chăm và Hán, kể từ năm 1702, tất cả Việt kiều sống trong Panduranga-Champa không trực thuộc quyền quản trị của vương quốc này, nhưng trực thuộc phủ Bình Thuận của nhà Nguyễn. Phủ Bình Thuận này là một cơ quan đại diện cho nhà Nguyễn, có vai trò để giải quyết với chính quyền Panduranga-Champa mọi vấn đề liên quan đến quyền lợi Việt kiều sống ở vương quốc này.Sự hiện diện của Việt kiều núp sau cái bóng hình của phủ Bình Thuận là nguyên nhân chính yếu đưa đến xự xung đột hàng ngày giữa đồng bào Panduranga-Champa và cộng đồng Việt kiều. Và xự xung đột này thường xảy ra chung quanh vấn đề khủng hoảng đất đai. Vì rằng Việt kiều càng ngày càng mở rộng lãnh thổ của mình, hoặc qua các cuộc mua bán ruộng đất một khi dân tộc Champa bị thiếu nợ, hoặc qua các cuộc chiếm đất bất hợp lệ trong những khu vực hoang vắng. Kể từ đó, Panduranga-Champa không còn biên giới cố định, vì lãnh thổ có một hình dạng như vết dầu loan, nằm xen kẻ trong biên giới của đất đai thuộc phủ Bình Thuận của nhà Nguyễn
Thời kỳ 1771-1832: Những ngày cuối cùng của Champa
Năm 1771 đánh dấu cuộc vùng dậy của Tây Sơn chống lại chế độ bạo tàn của nhà Nguyễn. Công trình đấu tranh của Tây Sơn bắt đầu lan rộng trong khắp nước. Trước tình thế này, nhà Nguyễn từ bỏ thủ đô mình để lui vềẩn náu ở khu vực đồng bằng sông Mékong, chờ đợi thời cơ khôi phục lại đất nước. Kể từ ngày ấy Tây sơn làm chủ miền bắc, còn hoàng tử Nguyễn Ánh của nhà Nguyễn làm chủ miền nam. Thế là Panduranga-Champa, vì địa thế của mình, một lần nữa trở thành nạn nhân của chiến tranh giữa người Việt với người Việt, một cuộc chiến tranh chẳng có gì liên hệ với vương quốc Champa. Theo sử liệu của Việt Nam , mục tiêu tiên quyết của Nguyễn Ánh và Tây Sơn là phải chiếm cho kỳ được Panduranga-Champa để làm nhịp cầu tiến quân chống phá thành Saigon do Nguyễn Ánh trấn giữ hay chống phá Nha Trang dưới sự kiểm soát của Tây Sơn. Làm chủ Panduranga-Champa tức là làm chủ tình hình quân sự trong sự xung đột này. Chính vì thế, kể từ năm 1771 vương quốc Panduranga-Champa đã trở thành một bãi chiến trường khủng khiếp giữa quân Tây Sơn và lực lượng Nguyễn Ánh. Trước biến cố này, sự sống còn của Panduranga-Champa chỉ là một giấc mơ huyền ảo và nó tùy thuộc hoàn toàn vào kết quả của chiến tranh giữa người Việt
Năm 1802, Nguyễn Ánh đánh bại tàn quân Tây Sơn, làm chủ toàn diện lãnh thổ Việt Nam, sau đó lên ngôi lấy danh hiệu là Gia Long. Khi chiến tranh đã chấm dứt, Gia Long quyết định trao trả lại cho vương quốc Panduranga-Champa, không phải là quyền độc lập, nhưng là quyền tự trị dưới sự bảo hộ của triều đình Huế. Sau đó, Gia Long phong tước cho ong Po Soang Nhung Ceng, một tướng tài gốc người Chăm (tổ tiên bà Thềm ở Phan Rí), đã từng tham gia với Nguyễn Ánh để chống Tây Sơn, quyền cai trị vương quốc này. Mặc dù là một vương quốc tự trị, nhưng Po Saong Nhung Ceng có quyền tuyệt đối trên nhân dân của Panduranga, có quyền thành lập quân đội riêng và quyết định thuế má riêng trong lãnh thổ của mình.Thành hình trong qui chế thuộc địa Việt Nam, nếu Gia Long quyết định cho tái lập lại vương quốc Panduranga-Champa, đó là để tỏ bày sự cám ơn của mình đối với tướng Saong Nhung Ceng đã có công trong công trình đánh đuổi Tây Sơn hơn là bày tỏ ý muốn của mình để vương qưốc Champa này được phục hồi lại . Dù trong hoàn cảnh nào đi nữa, Panduranga-Champa cũng là một vương quốc tự trị dưới sự bảo trợ của Gia Long,nhất là dưới sự che chở tối đa của ông Lê Văn Duyệt, Tổng Trấn Gia Ðịnh Thành.Năm 1802, Gia Long từ trần. Minh Mệnh kế tiếp cha mình để cai trị toàn vẹn Việt
1832-1835: Sự vùng dậy cuối cùng
Những chính sách tàn bạo của một số quan chức Minh Mệnh nhằm trừng trị thẳng tay nhân dân Champa vì tội theo Lê Văn Duyệt là nguyên nhân chính yếu giải thích cho sự vùng dậy của dân tộc Champa vào năm 1833. Ðói khát, tù đày, xử trảm không cần lý do, không cần xét xử, tập trung người dân Champa vào lao dịch trong những nông trường kinh tế, đốt cháy làng xã thành tro bụi, v.v. là sự việc diễn ra hàng ngày sau ngày mất nước. Không thể kham nổi những sự khốn khổ này, Katip Sumat, một nhà lãnh đạo tinh thần Hồi Giáo, kêu gọi quần chúng nổi dậy, thành lập một mật trận kháng chiến Hồi Giáo, dùng chiến tranh tử vì đạo (Jihâd) chống lại Minh Mệnh để dành độc lập Champa. Phong trào kháng chiến của Katip Sumat đã trở thành một mối đe dọa lớn cho Minh Mệnh trong khu vực này. Chính thế, ngoài đoàn quân hùng mạnh của triều đình Huế, Minh Mệnh kêu gọi tất cả Việt kiều sống ở đây góp sức để đánh phá toàn diện lực lượng Katip Sumat vào năm 1834.
Nếu sử liệu Việt Nam ít nói đến cuộc nổi dậy của Katip Sumat, thì sử liệu này không bỏ lỡ cơ hội viết về biến cố 1834-1835, biến cố mà triều đình Huế coi đó là một cơ cấu cách mạng mới mang hình thức “Mật Trận Giải Phóng” hơn là hình thức nổi loạn. Ðúng vậy, Ja Thak Wa, người làng Văn Lâm (Ninh Thuận), là một quan chức lớn trong triều Champa thời trước, là người đứng ra thành lập Mật Trận Giải Phóng, và thành lập chính phủ lâm thời để điều hành công cuộc cách mạng giải phóng Champa. Lấy khu Ðồng Nai, nơi mà dân Việt không dám xâm nhập, để làm mật khu. Ông ta đứng ra đề nghị một ông hoàng tử gốc Raglai, dòng Po Romé, lên ngôi của vương quốc. Ông kêu gọi toàn dân Champa, cả anh em cao nguyên và người Chăm cùng đứng dậy chống lại quân xâm lược Minh Mệnh. Sau khi chiếm đóng khu vực Phan rang, ông cho lệnh tiến đánh khu vực Phú Yên và Bình Ðịnh. Tiếc thay, ông bị tử trận ở làng Hữu Ðức (Phan Rang) vào năm 1835. Phong trào của Ja
Sau cái
chết của Ja Thak Wa, Minh Mệnh phát động một chính sách vô cùng tàn bạo để trừng
trị những ai dính dáng vào cuộc cách mạng này: trưng thu ruộng đất, theo dõi và
bắt bớ, tập trung cải tạo và tù đày tối đa, cấm phân phối lương thực, thiêu đốt
làng xã cho đến quật cả mồ mã những gia đình theo cách mạng . Sau cùng, để kiểm
soát sự tập trung của dân tộc Champa, Minh Mệnh cho lệnh dời hết tất cả làng xã
Champa đi chổ khác để thành lập làng xã người Việt. Chương trình dời làng xã
người Champa là một chính sách nhằm phá hủy toàn bộ cơ cấu tổ chức cổ truyền của
xã hội và gia đình người dân Champa thời đó .họ định diệt chủng một phần hay
toàn bộ sắc tộc đáng thương này?Sự diệt vong của Champa có một nguyên nhân
chính yếu, đó là vương quốc này đã trở thành một nạn nhân của chính sách Nam Tiến
Việt Nam.Nơi giao lưu và triệt hạ lẫn nhau của 3 nền văn hóa lớn:Ấn độ-trung
hoa và trung đông Sau ngày diệt vong, vương quốc này chỉ để lại sau lưng mình mốt
số di tích lịch sử đã chôn sâu vào lòng đất lạnh, hai cộng đồng nhân chủng xuất
thân từ dân tộc Champa thời trước. Cộng đồng đầu tiên gồm vào khoảng 300.000
anh em Tây nguyên ở miền trung Việt Nam . Nhóm thứ hai vào khoảng
100.000 người Chăm ở vùng Phan Rang, Phan Rí,30.000 ở khu vực Châu Ðốc và Tây
Ninh,hơn150.000 lánh nạn ở Kampuchea,100000 người ỏ malaysia, indonesia .Thế rồi qua thời gian thăng trầm của nhiều biến cố lịch
sử mà theo nhiều sử gia và học giả phương Tây thì biến cố 2/3/1471 đánh dấu sự
giải thể vương quốc Champa và không một biên khảo lịch sử hay niên giám triều
đình Champa nào được phổ biến từ sau ngày đó.Tuy nhiên trong thực tế thì sinh
hoạt triều chính của các dòng vương tôn Champa vẫn tiếp tục, với một qui mô tuy
nhỏ hẹp nhưng không kém phần nghiêm túc.Năm 1832 đánh dấu sự diệt vong toàn diện
của vương quốc Champa, nhưng cộng đồng Champa vẫn còn đó: một cộng đồng không
vua chúa, không người lãnh đạo.Chính vì thế, tiến trình của xã hội Champa sau
ngày mất nước đã đi vào một khúc quanh mới, một khúc quanh mà tôi cùng mọi người,
một người con champa,tiền thân Malayo Polynésien mong muốn rằng: hãy bỏ qua đi
những xung đột quá khứ,mà hãy học hỏi những gì tốt đẹp trong quá khứ để cùng
nhau hướng đến tương lai tốt đẹp hơn.Trên cõi đời này ai cũng có đôi lần vấp
ngã,Những ai vấp ngã thì phải xác định ta vấp ngã vì đường đời hay vấp ngã vì
chính vũng lấy ta tạo nên.Ta sinh ra trên cõi đời này điều có anh em, cha mẹ,
ông bà, họ hàng,dòng tộc, thủy tổ. Vậy dòng máu ta chảy từ đời này là sự chắc lọc
từ bao đời đi trước để ta thừa hưởng cho ngày hôm nay.Dân tộc, thủy tổ, họ
hàng, ông bà,cha mẹ đi trước đã hy sinh chống lại vô vàn thiên tai,dịch bệnh ,chiến
tranh chính vì sự trường tồn hôm nay của chúng ta.Là thế hệ hôm nay chúng ta phải
phát huy tố chất cha ông để lại, gìn giữ,sáng tạo thêm nữa giữ vai trò tiên
phong cho dân tộc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét