phần 7
Các dòng vương tôn Champa
Theo lịch sử, các dòng vương tôn cầm quyền tại Champa đều xuất thân từ hai dòng
họ lớn. Mỗi dòng họ lấy một vật tổ (totem) làm biểu tượng. Dòng vương tôn ở
phía Nam
lấy cây Cau (Kramukavansa) làm biểu tượng, những nhà nghiên cứu gọi là chi bộ,
bộ tộc hay thị tộc Cau. Dòng vương tôn ở phía Bắc lấy cây Dừa (Narikelavansa)
làm biểu hiệu, gọi là chi bộ, bộ tộc hay thị tộc Dừa. Chỉ những truyền nhân xuất
thân từ hai dòng họ này mới được công nhận lên ngôi vua, tức phải thuộc đẳng cấp
Brahman và Ksatriya. Những người dân thường, cho dù có tài giỏi hay anh dũng đến
đâu cũng không được công nhận là vua nếu không chứng minh có liên hệ huyết thống
đến hai dòng họ này, tức phải do một phụ nữ mang dòng máu vương tôn sinh ra.
Trong lịch sử Champa, nhiều người xuất
thân là dân thường phải biện hộ có thần linh yểm trợ để lên ngôi vua như Phạm
Văn (nguyên là một người chăn dê gốc Hoa), Lưu Kỳ Tông (một người Việt muốn lên
làm vua nhưng không được dân chúng tuân phục) hay nhiều vị tướng khác sau khi
đã hạ đối thủ chính trị.
Thật ra người dân thường khó giữ được ngôi cao trong xã hội Champa vì không bao
giờ có cơ hội, hơn nữa những người thuộc giai cấp vương tôn, đặc biệt là giới
vương tôn nữ phái, chỉ lập gia đình với những dòng vương tôn với nhau, do đó
không có những cuộc hôn nhân không môn đăng hộ đối và ít có những cuộc hôn nhân
dị chủng, dị giáo. Phụ nữ quí tộc Chăm chỉ chọn chồng cùng đẳng cấp, đa số cung
phi của các vua Champa đều xuất thân từ các gia đình quí tộc. Khi một vua
Champa cưới một người vợ ngoại quốc, ông ta chỉ có thể lập gia đình với con gái
của những vua chúa thuộc các vương triều khác, chứ không thể lấy một người thường
dân.
Xã hội Champa tuy theo chế độ mẫu hệ nhưng lại
phụ quyền. Trong gia đình, người đàn bà, gọi là Mẹ cả, đảm nhiệm vai trò chọn
người kế thừa, bàn thảo tương lai con cái,chọn chồng cho con gái, đứng ra cưới
hỏi, gìn giữ bàn thờ tổ tiên, giữ gìn hương hỏa.Ngoài xã hội, người đàn ông có
toàn quyền quyết định việc canh tác, giao thiệp và buôn bán, nhưng chỉ người
con trai hay đàn ông nào được sinh ra bởi một người mẹ thuộc dòng quí tộc mới
được chấp nhận làm vua hay giữ vai trò cao trong triều đình.
Tài liệu cổ và truyền thuyết Chăm cho biết truyền nhân của những dòng họ vị vua
cai trị vương quốc Champa là hai vị nữ thần được sinh ra bởi nữ thần Sakti
Bhagavati, vợ của Siva : Visitrasaga cho các vua phía Nam và Uroja cho các vua
phía Bắc. Chỉ những người mang dòng máu từ những phụ nữ này mới được giữ những
địa vị cao và nắm giữ vai trò lãnh đạo, con cháu của họ có thể là những người
sinh sống tại đồng bằng hay trên miền núi.
Hình tượng Linga (bộ phận sinh dục tượng trưng
cho sức mạnh của phái nam, biểu tượng của khả năng tái tạo) tượng trưng cho thần
Siva (nam tính) hiện thân qua nữ thần Uroja. Hình tượng Yoni (cơ quan sinh sản
của phái nữ, biểu tượng của khả năng dưỡng dục) tượng trưng cho nữ thần
Bhagavati (nữ tính) hiện thân qua nữ thần Visitrasaga. Uroja còn được gọi là thần
Núi, Visitrasaga là thần Biển. Tượng Uroja được xây dựng trên các triền núi ở
phía Bắc, tượng nữ thần Bhagavati được tôn thờ nhiều trên những vùng bình
nguyên phía Nam ,
cạnh các bờ biển. [Vị thần bảo vệ vương quốc Nam Champa là nữ thần Yan Po Nagar
(Bà Mẹ Đất Nước hay Thiên Y Thánh Mẫu)]. Chính những phân chia dòng tộc Nam và
Bắc này mới nảy sinh ra huyền thoại về các bộ tộc Cau và Dừa.
Về bộ tộc Cau, theo truyền thuyết, vào thời xa xưa một vị vua cai trị phương Nam một
hôm thấy bên cạnh cung đình có một cây cau trổ một buồng trái thật lớn và thật
đẹp. Đến ngày trổ hoa, buồng cau không nở, nhà vua thắc mắc liền sai một gia
nhân trẻ tuổi trèo lên hái xuống xem sao. Gia nhân mang xuống dâng lên vua. Vua
lấy gươm báu chẻ mo cau ra thì thấy một em bé mặt mũi hồng hào đẹp đẽ. Nhà vua
rất vui mừng, nhận làm con nuôi và đặt tên là Radja Po Klong, tức hoàng tử Po
Klong (Po Klău). Mo cau bọc hoàng tử được dùng làm mộc đỡ của hoàng gia và mũi
nhọn của mo cau được biến thành gươm báu của nhà vua. Mộc đỡ và gươm báu sau
này trở thành biểu tượng cho uy quyền của các vị vua Champa phía Nam .
Hoàng tử Po Klong không chịu bú sữa của người
thường mà chỉ bú sữa của một con bò tơ ngũ sắc. Đó cũng là lý do giải thích tại
sao người Champa ở phía Nam
sau này từ chối giết và ăn thịt bò. Hoàng tử Po Klong càng lớn lên càng đẹp và
khỏe mạnh. Nhà vua sau đó gả con gái và cho kế nghiệp. Khi lên ngôi, Po Klong
cho xây một cung thành tuyệt mỹ trải rộng trên bảy ngọn đồi, đặt tên là Băl.
Băl sau này là thủ đô của các tiểu vương quốc Champa theo tiếng "Chăm mới",
như Băl Cău ở Phan Rang, Băl Canar ở Phan Rí (thôn Tịnh Mỹ) của bộ tộc Cau.
Chuyện bò ngũ sắc là dựa theo truyền thuyết Bò Thần của đạo Bà La Môn bên Ấn Độ,
ý muốn nói bò là một vị thần, dân chúng phải tôn thờ không được ăn thịt hay sử
dụng phó sản của bò để tỏ lòng tôn kính thần linh.
Về bộ tộc Dừa, các dòng vương tôn phương Bắc cũng dựa theo truyền thuyết trên để tạo sự huyền bí về dòng dõi vương quyền của mình, nhưng đổi buồng cau thành buồng dừa và mo cau thành mo dừa. Theo lời kể lại, một vị hoàng tử được sinh ra từ một mo dừa, làm con nuôi một vị vua, lấy một cô công chúa và sau đó được tôn lên làm vua. Không rõ vị vua này tên gì, các nhà nghiên cứu Champa và khảo cổ chưa tìm ra sử tích.
Về bộ tộc Dừa, các dòng vương tôn phương Bắc cũng dựa theo truyền thuyết trên để tạo sự huyền bí về dòng dõi vương quyền của mình, nhưng đổi buồng cau thành buồng dừa và mo cau thành mo dừa. Theo lời kể lại, một vị hoàng tử được sinh ra từ một mo dừa, làm con nuôi một vị vua, lấy một cô công chúa và sau đó được tôn lên làm vua. Không rõ vị vua này tên gì, các nhà nghiên cứu Champa và khảo cổ chưa tìm ra sử tích.
Thật ra, các dòng vương tôn phía Bắc, vì chịu ảnh
hưởng muộn màng nền văn minh Ấn Độ, phải tìm trong kho tàng dân gian một câu
chuyện huyền bí đề cao dòng tộc vương quyền của mình để tỏ ra ngang hàng với
các dòng vương tôn phía Nam. Tuy nhiên, do chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa
Trung Hoa lúc ban đầu, thay vì phải thờ vật tổ (cây Cau hay Bò Thần) như người
phía Nam, người Chăm phía Bắc đề cao cây Dừa như một biểu tượng huyền bí của uy
quyền - như người Hoa đề cao con rồng hay con phượng. Hơn nữa, vật tổ của người
Chăm phương Bắc không mang ý nghĩa tôn giáo mà chỉ thuần túy là một biểu tượng.
Tượng mà người Chăm miền Bắc tôn thờ là Buddha, Siva và các vị thần Ấn Độ khác.
Một vị vua làm được nhiều tốt cho dân chúng, khi chết đi được dân chúng tạc tượng
và lập đền thờ tôn kính như một vị Phật. Tên vị vua quá cố thường được kết hợp
với tên thần Isvara (tức Siva), do đó tên sau cùng của các vị vua quá cố thường
có thêm chữ "vara" Bradresavara,Sambhudresavara để thần thánh hóa
ngôi vị của mình, vua là do thần sai xuống cai trị dân gian.
Qua sự phân chia này, trong suốt dòng lịch sử của
vương quốc cổ Champa, các bia ký ghi lại rất nhiều tranh chấp giữa hai bộ tộc về
quyền lãnh đạo, không bộ tộc nào chịu nhường bộ tộc nào. Bộ tộc Dừa bị coi là bộ
tộc bình dân (không tinh khiết) thường bị các dòng vương tôn bộ tộc Cau (tự nhận
là truyền nhân chính thống) khinh thường. Tuy nhiên vì quyền lợi của đất nước,
nhiều lúc hai bộ tộc này đã biết kết hợp lại thành một để đối phó với kẻ thù
chung. Ba bia ký tại làng Võ Cạnh, Hòn Cúc, Mỹ Sơn có ghi danh hiệu của vua
Bhadravarman tại đền Tháp trên toàn lãnh thổ Champa, sự kiện này theo Louis.
Finot đã chứng tỏ Champa là một quốc gia độc lập và thống nhất quyền năng của
nhà vua Trung ương, các Lãnh chúa hay Tiểu vương của mỗi vùng đều phải khép mình
dưới quyền lực nhà vua.
Theo sử liệu kinh đô đầu tiên của Champa là Trà Kiệu. Còn Khu – Túc chỉ là một thành lũy mới xây có tánh cách Quốc Phòng khi Khu Liên vừa mới dựng nước.
Năm 758-859 kinh đô mới là Virapura
Năm 875-991 có lẽ vì Ðại Việt có những hoạt động quân sự gần gũi với biên giới Champa, nên vua Indravarman II mới dời đô về Vijaya ở Bình Ðịnh để được yên ổn hơn.
Ðến triều vua Harivarman IV (1074-1081) đặt Kinh Ðô tại kinh thành Champapura. Có lẽ lúc này ở Vijaya Bình Ðịnh chỉ là thành quách Quốc Phòng kiên cố để ngăn quân Ðại Việt, còn Kinh Ðô đã dời về Champapura.Sau khi thành Ðồ Bàn thất thủ 1471, kinh đô Champa dời về Virapura của Châu Panduraga tức vùng Phan Rang ngày nay.
Về quốc phòng: Theo sử liệu Trung Hoa, Champa thời đó có khoản 40,000 quân đến 50 ngàn quân thời Phạm Văn khoản thế kỷ IV.
Năm 1360 thời vua Chế Bồng Nga với những chiến công hiển hách, làm cho vua quan nhà Trần phải bỏ cả thành Thăng Long (tức Hà Nội bây giờ) mà chạy, chứng tỏ Champa đã có một lực lượng quân sự hùng hậu và tinh nhuệ. Lực lượng quân đội gồm có: Bộ Binh, Hải Binh, Kỵ Binh và Tượng Binh (qua điêu khắc tại đền Tháp thuộc quần thể Mỹ Sơn) thấy rõ phần nào về khả năng quân sự của Vương Quôc Champa.
Theo sử liệu kinh đô đầu tiên của Champa là Trà Kiệu. Còn Khu – Túc chỉ là một thành lũy mới xây có tánh cách Quốc Phòng khi Khu Liên vừa mới dựng nước.
Năm 758-859 kinh đô mới là Virapura
Năm 875-991 có lẽ vì Ðại Việt có những hoạt động quân sự gần gũi với biên giới Champa, nên vua Indravarman II mới dời đô về Vijaya ở Bình Ðịnh để được yên ổn hơn.
Ðến triều vua Harivarman IV (1074-1081) đặt Kinh Ðô tại kinh thành Champapura. Có lẽ lúc này ở Vijaya Bình Ðịnh chỉ là thành quách Quốc Phòng kiên cố để ngăn quân Ðại Việt, còn Kinh Ðô đã dời về Champapura.Sau khi thành Ðồ Bàn thất thủ 1471, kinh đô Champa dời về Virapura của Châu Panduraga tức vùng Phan Rang ngày nay.
Về quốc phòng: Theo sử liệu Trung Hoa, Champa thời đó có khoản 40,000 quân đến 50 ngàn quân thời Phạm Văn khoản thế kỷ IV.
Năm 1360 thời vua Chế Bồng Nga với những chiến công hiển hách, làm cho vua quan nhà Trần phải bỏ cả thành Thăng Long (tức Hà Nội bây giờ) mà chạy, chứng tỏ Champa đã có một lực lượng quân sự hùng hậu và tinh nhuệ. Lực lượng quân đội gồm có: Bộ Binh, Hải Binh, Kỵ Binh và Tượng Binh (qua điêu khắc tại đền Tháp thuộc quần thể Mỹ Sơn) thấy rõ phần nào về khả năng quân sự của Vương Quôc Champa.
B-LICH SỬ CHAMPA QUA CÁC TRIỀU VƯƠNG
1. Triều vương thứ nhất (192-366)
:Sau hàng thập niên bị nhà hán đô hộ, với chính sách hà hiếp,
tàn bạo.Sri-mara đã lãnh đạo các bộ
tộc champa vùng lên,lật đổ ách cai trị nhà hán, thành lập quốc gia champa thống
nhất.Ông lên ngôi năm 192,Đóng đô trà kiệu,ông lãnh đạo vương quốc champa gồm một
lãnh thổ rộng lớn từ hoành sơn cho đến đồng nai ngày nay.Danh xưng vương quốc
Champa là quốc hồn, quốc túy của nhân dân Champa ( Champa là tên hoa đại hay
hoa sứ ngày nay người việt nam thường trồng ở những nơi tôn nghiêm, có mùi thơm
nhẹ nhàn, thanh thoát).Ngôn ngữ dân tộc Champa thuộc
nhóm gia đình ngữ học Mã Lai đa đảo (Malayo Polynesian) hay một danh xưng khác
gọi là nhóm gia đình ngôn ngữ Nam đảo (Austronesian). Văn tự champa sử dụng chữ:Phạn(Sanskrit
).Văn tự Ấn Độ đi theo các nhà truyền giáo đã được phổ biến rộng rãi tại Champa
và trở thành chữ quốc ngữ của Champa.Tôn giáo lấy Bà la môn (Brahmanism): làm
quốc giáo, giữ vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, tinh thần tộc người
Champa.Bà la môn hình thành và phát triển có bề dày trên 3000 năm lịch sử Ấn Độ.
Giáo lý Bà-la-môn được thiết lập trên nguyên lý của kinh Veda.Vua
sri-mara lấy giáo điều bà la môn để xây dựng đất nước champa. Sri-mara (Khu
Liên) lên ngôi năm 192, trị vì trong nhiều năm, Sử cổ Trung Hoa (Lương thư) cho
biết trong khoảng thập niên 220-230, con cháu Khu Liên có gơi phái bộ đến thống
đốc Quang Đông và các thái thú Giao Châu (Lã Đại và Lục Dận) triều cống và duy
trì quan hệ ngoại giao. Sự kiện nổi bật sau thời Khu Liên là cuộc dấy binh của
bà Triệu năm 248 tại quận Cửu Chân chống lại quân Đông Ngô (Trung Hoa). Bà Triệu,
còn gọi là Triệu Trinh Nương, là một thiếu nữ Mường cưỡi voi ra trận làm khiếp
đam quân địch. Bà Triệu cũng là mẫu người lý tương cua chế độ mẫu hệ : thân
hình nẩy nở (vú dài ba thước !?) và can đảm (dám đứng ra gánh vác việc nước).
Có lẽ trong giai đoạn này con cái của Khu Liên gia nhập vào đội quân của bà Triệu
rất đông vì cuộc khởi nghĩa được sử Trung Hoa ghi nhận là cuộc nổi dậy của người
dân Champa.
Nhà Đông Ngô phong danh tướng Lục Dận tước An Nam hiệu úy, tức thứ sư, sang
Giao Châu dẹp lọan. Lục Dận vừa dùng mưu vừa làm áp lực chiêu dụ các bộ lạc nổi
loạn ; sau hơn 6 tháng cầm cự quân của Bà Triệu bị cô lập và bị đánh bại phai
chạy về miền Nam
lánh nạn. Lục Dận xua quân xuống chiếm Khu Lật (Huế), bắt theo hàng ngàn thợ
khéo tay mang về Giao Châu rồi dâng cho nhà Đông Ngô năm 260. Những vùng đất bị
nghĩa quân Lâm Ấp chiếm đóng đều bị lấy lại. Lãnh thổ Lâm Ấp trở về vị trí cũ,
tức huyện Tượng Lâm, quân Đông Ngô không dám tiến xuống xa hơn. Có lẽ truyền nhân
đích tôn cua Khu Liên đã chết trong cuộc khởi nghĩa này vì không còn được nhắc
tới nữa. Sách Lương thư cho biết năm 270, cháu ngoại của Khu Liên là Phạm Hùng
(Fan Hiong) lên làm vua.
Cũng nên biết "Phạm" ở đây là cách phiên âm Hán hóa từ chữ
"Po" (hay Pô, Phò, Pha) của người Champa tức là người đứng đầu, lãnh
tụ hoặc là ngài, chứ không phải là cách phiên âm từ chữ "varman" của
người Ấn, cũng có nghĩa là vua, vương, ngài, hay "họ Phạm" của người
Việt Nam mà ra. Cũng nên biết người Champa theo chế độ mẫu hệ, chỉ có tên chứ
không có họ.
Dưới thời Phạm Hùng, lãnh thổ champa được nới rộng tới thành Khu Túc, cạnh sông
Gianh, phía bắc và tới Khánh Hòa (Kauthara) phía nam. Phạm Hùng cũng đã chinh
phục và thống nhất các tiểu vương quốc khác nằm trong các lõm đất dọc duyên hai
miền Trung : Amavarati (Quang Nam ),
Vijaya (Quang Ngãi, Bình Định) và một phần lãnh thổ Aryaru (Phú Yên). Nhưng sau
hơn 10 năm chinh chiến (271-282), Phạm Hùng bị quân Tây Tấn (do Đào Hoàng chỉ
huy) đánh bại, năm 283 con là Phạm Dật (Fan Yi) lên ngôi thay. Năm 284, Phạm Dật
gởi một sứ bộ sang Trung Hoa cầu hòa, champa được thái hòa và Phạm Dật trị vì
52 năm thì qua đời.
2. Triều vương thứ hai (337-420) :Phạm Dật qua đời năm 336, một tể tướng cướp ngôi vua tự xưng Phạm Văn
(Fan Wen)Văn trở thành người thân tín của Phạm Dật và được giao trọng trách xây
thành, đắp lũy, dựng cung đài theo kiểu Trung Hoa, chế tạo chiến xa và vũ khí,
chế biến dụng cụ âm nhạc v.v... và được thăng chức tể tướng.
Dưới thời Phạm Văn, kỹ thuật luyện sắt (rèn kiếm, đúc lao) đạt đến tột đỉnh. Nhà vua áp dụng văn minh Ấn Độ thẳng vào đời sống : cai tổ lại hệ thống quan lại theo khuôn mẫu Ấn Dộ, nhờ đó guồng máy tổ chức chính quyền chạy đều và mang lại hiệu qua tốt ; xây dựng thu phu chính trị tại Khu Lật (K’iu-sou, hay Thành Lồi, Huế), hình chữ nhật, chu vi 2100 mét, tường cao 8 mét, có 16 cưa, dân chúng sống chung quanh chân thành, mỗi khi có loạn, các cưa thành đều đóng lại. Với thế mạnh này, Phạm Văn đánh thắng hai nước Đại Kỳ Giới và Tiểu Kỳ Giới (có thể đây là hai vương quốc trên đất Lào ngày nay), chinh phục nhiều bộ lạc khác như Che Phou, Siu Lang, Khiu Tou, Kan Lou và Fou Tan (có thể là những bộ lạc thiểu số gốc Thái trên dãy Trường Sơn), tăng cường số phụ nữ mang về từ các lãnh thổ đánh chiếm được và tăng nhân số trong quân đội (khoang từ 40.000 đến 50.000 người).
Dưới thời Phạm Văn, kỹ thuật luyện sắt (rèn kiếm, đúc lao) đạt đến tột đỉnh. Nhà vua áp dụng văn minh Ấn Độ thẳng vào đời sống : cai tổ lại hệ thống quan lại theo khuôn mẫu Ấn Dộ, nhờ đó guồng máy tổ chức chính quyền chạy đều và mang lại hiệu qua tốt ; xây dựng thu phu chính trị tại Khu Lật (K’iu-sou, hay Thành Lồi, Huế), hình chữ nhật, chu vi 2100 mét, tường cao 8 mét, có 16 cưa, dân chúng sống chung quanh chân thành, mỗi khi có loạn, các cưa thành đều đóng lại. Với thế mạnh này, Phạm Văn đánh thắng hai nước Đại Kỳ Giới và Tiểu Kỳ Giới (có thể đây là hai vương quốc trên đất Lào ngày nay), chinh phục nhiều bộ lạc khác như Che Phou, Siu Lang, Khiu Tou, Kan Lou và Fou Tan (có thể là những bộ lạc thiểu số gốc Thái trên dãy Trường Sơn), tăng cường số phụ nữ mang về từ các lãnh thổ đánh chiếm được và tăng nhân số trong quân đội (khoang từ 40.000 đến 50.000 người).
Năm
340, Phạm Văn xin nhà Đông Tấn cho sát nhập quận Nhật Nam, gồm các huyện Tây
Quyển, Ty Canh, Chu Ngô, Lô Dung và một phần đất phía nam quận Cưu Chân huyện
Hàm Hoan (Thanh Hóa) vào lãnh thổ Lâm Ấp nhưng không được toại nguyện. Phạm Văn
liền xua quân tiến công vào nội địa Nhật Nam, chiếm huyện Tây Quyển, giết thứ
sư Hạ Hầu Lâm, lấy mũi Hoành Sơn (nam Thanh Hóa) làm biên giới phía bắc, cho
xây lại thành Khu Túc (cạnh sông Gianh) phòng giữ. Từ đó phần lãnh thổ từ đèo
Ngang trơ xuống thuộc về Lâm Ấp và cũng kể từ đó phía bắc đèo Ngang là nơi xay
ra những trận thư hùng giữa Lâm Ấp và Giao Châu trong suốt hai thế ky 4 và 5.
Năm 349 nhà Đông Tấn phản công, quân Lâm Ấp bị đánh bại, Phạm Văn bị trọng
thương và qua đời, con là Phạm Phật (Fan Fo) lên thay.
Phạm Phật là một vị tướng tài ba, được nhiều sử gia cho là người mở đầu vương
triều Gangaraja (Bắc Champa). Vừa lên ngôi, Phạm Phật tấn công quân Đông Tấn tại
Nhật Nam
và vây thành Cửu Chân. Năm 351, quân Lâm Ấp bị đánh bại phải bỏ chạy về phía
tây tại Lãng Hồ, huyện Thọ Lãnh (Thanh Hóa), thành Khu Túc bị chiếm, ranh giới
được thiết lập lại tại huyện Ty Canh gần sông Nhật Lệ (Quang Bình). Năm 359,
quân Đông Tấn chiếm huyện Thọ Lãnh và đánh bại quân Lâm Ấp tại vịnh Ôn Cấn, chiếm
thành Khu Túc ; Phạm Phật xin hòa và gơi sứ bộ sang Trung Hoa triều cống (372
và 377). Phạm Phật mất năm 380 nhường ngôi cho con là Phạm Hồ Đạt.
Phạm Hồ Đạt (Fan Houta) nhiều học gia cho là vua Dharmamaharaja, hiệu
Bhadravarman I, người sáng lập vương triều Gangaraja. Dưới thời Phạm Hồ Đạt, Phật
giáo tiểu thừa (Thevada) phát triển mạnh, nhiều nhà sư đến trực tiếp từ Ấn Độ
sang truyền đạo. Thành Khu Lật (Huế) vẫn là trung tâm chính trị nhưng đổi tên
thành Kandapurpura, nghĩa là Phật Bao Thành (vì là nơi có nhiều đền đài và hình
tượng Phật và Siva). Bên cạnh đó nhà vua còn cho xây dựng thêm một trung tâm
tôn giáo mới tại Amavarati, tức thánh địa Hào Quang (nay là Mỹ Sơn, một thung
lũng cách Đà Nẵng 70km về phía tây). Nhiều đền thờ Bà La Môn được xây dựng tại
Mỹ Sơn để thờ thần Siva và tượng Linga, tượng trưng sức mạnh phái nam. Ngôi đền
đầu tiên được xây bằng gỗ vào cuối thế ky 4 mang tên Bradresvara, kết hợp giữa
tên vua Bradravarman I và thần Isvara (hay Siva). Kể từ thế ky thứ 4 trở đi
lãnh tụ chính trị và tôn giáo tại Lâm Ấp là một : thờ thần tức thờ vua, vua
thay mặt thần Siva cai quan muôn dân. Siva vừa là thần bảo hộ xứ sở vừa là vị
thần giữ đền (Dvarapala) để dân chúng đến thờ phượng và dâng lễ vật.
Năm 399, Phạm Hồ Đạt mang quân chiếm quận Nhật Nam, giết thái thú Khổng Nguyên,
tiến công quận Cửu Đức, bắt sống thái thú Tào Bính nhưng bị quân cua thống chế
Đỗ Viện đánh bại phải rút về dưới đèo Ngang. Năm 413,Phạm Hồ Đạt mang bộ binh
chiếm đóng Nhật Nam, ra lệnh cho thủy binh đổ bộ vào Cưu Chân đốt phá các làng
xã ven duyên. Thứ sư Đỗ Tuệ Độ mang quân ra nghinh chiến, chém được con của Phạm
Hồ Đạt là Phạm Trân Trân (tiểu vương đất Giao Long) và tướng Phạm Kiện, bắt làm
tù binh hơn 100 người, trong có một hoàng tư tên Na Neng, tất ca đều bị chém đầu.
Phạm Hồ Đạt trốn vào rừng sâu rồi mất tích. Trong khi chưa tìm được một vị vua
mới, triều đình champa tiếp tục triều cống Trung Hoa để được yên về chính trị.
Trong thời gian từ 413 đến 420, con cháu Phạm Hồ Đạt tranh giành ngôi vua, nội
chiến xảy ra khắp nơi. Năm 413, một người con cua Phạm Hồ Đạt là Địch Chớn (Ti
Chen), đạo sĩ Bà La Môn, được triều thần đưa lên ngôi vua, hiệu Gangaraja (sông
Gange bên Ấn Độ). Địch Chớn là người đam mê văn hóa Ấn Độ muốn nhường ngôi cho
em là Địch Khai (Ti Kai) để sang Ấn Độ sống những ngày cuối đời, nhưng Địch
Khai sợ bị triều thần ám hại, dẫn mẹ chạy trốn vào rừng. Ngôi báu đành nhường
cho Manorathavarman, cháu Địch Chớn nhưng tể tướng Thiếu Lâm (Tsang Lin) chống
lại vì người này không được sinh ra từ một người mẹ có dòng máu tinh khiết (tức
đẳng cấp Brahman), nên bị Manorathavarman giết chết.
3. Triều vương thứ ba
(420-530):Năm 420,con cháu của Thiếu Lâm ám sát vua
Manorathavarman và đưa người em cùng mẹ khác cha của Địch Chớn là Văn Địch (Wen
Ti) lên thay. Văn Địch xưng hiệu là Phạm Dương Mại I (Yan Mah hay Fan Yang
Mai), có nghĩa là Hoàng tư Vàng, nhưng không trị vị lâu vì bị chết trong một cuộc
tấn công của quân Đông Tấn. Con là thái tử Đốt, 19 tuổi, được nhà Đông Tấn
phong vương năm 421, hiệu Dương Mại II.
Nhân tình thế loạn lạc bên Trung Hoa (nhà Tống dẹp nhà Đông Tấn), năm 431,
Dương Mại II dẫn hơn 100 chiến thuyền tấn công các làng ven biển tại cưa Thọ
Lãnh, Tứ Hội và Châu Ngô (quận Nhật Nam và Cưu Chân) nhưng bị đánh bại, quân Tống
chiếm thành Khu Lật, Dương Mại II chạy trốn ra Cù Lao Chàm (Quang Nam). Năm
433, Dương Mại II xin "lãnh" đất Giao Châu về cai trị nhưng vua Tống
không chịu, chiến tranh lại xảy ra. Năm 443 vua Tống Du Long phong thống chế
Đàn Hòa Chi làm thứ sư Giao Châu, cùng hai phó tướng là Tống Xác và Túc Canh Hiến,
mang đại quân đánh Lâm Ấp, Phạm Dương Mại II chạy thoát được ra cưa Tượng Phổ,
vịnh Bành Long (Bình Định), tổ chức lại lực lượng, tăng cường thêm nhiều đội tượng
binh rồi ra lệnh tổng phan công nhưng không địch nổi quân Nam Tống. Những người
sống sót chạy sang Láng Cháng (Luang Prabang tại Bắc Lào) tị nạn, một số chạy đến
Champassak (Nam Lào) ẩn náu. Đàn Hòa Chi thu rất nhiều vàng bạc, châu báu, tượng
đồng vàđập phá rất nhiều đền đài. Sư Trung Hoa (Tống Thư) chép rằng Đàn Hòa Chi
lấy được nhiều tượng vàng (mười người mới ôm xuể), đem nấu chay thâu được hơn
10 vạn cân (50.000 kí-lô vàng y?). Từ đó Trung Hoa biết Lâm Ấp có nhiều vàng
nên mỗi khi có dịp là tiến quân xuống đánh cướp. Trong thời này, nhiều nhà sư
Phật giáo Trung Hoa ái mộ nét kiến trúc và tượng đài trong các đền thờ tại Mỹ
Sơn sang Lâm Ấp tìm hiểu và học hoi rất đông, nhiều tượng Bồ Tát cua Phật giáo
Đại Thừa Trung Hoa được tìm thấy trong các chùa (chùa Quang Khê) trong vùng.
Trong lúc chạy trốn về phía nam, Dương Mại II chinh phục luôn các tiểu vương tại
Vijaya (Bình Định), Aryaru (Phú Yên), thống nhất lãnh thổ phía Bắc. Năm 443,
Dương Mại II về lại Khu Lật, thấy canh hoang tàn, buồn rầu rồi mất năm 446.
Lãnh thổ phía Bắc cua Lâm Ấp bị đẩy lùi về huyện Lô Dung (Thừa Thiên), con cháu
Dương Mại II lại tranh chấp quyền hành.
Năm 455 con Dương Mại II là Phạm Chút (Fan Tou) lên ngôi, hiệu Trần Thành
(Devanika). Trung tâm chính trị vẫn tại Khu Lật, nhưng Trần Thành cho xây dựng
thêm một trung tâm văn hóa và tôn giáo mới tại Amaravati, gọi là thánh địa Hào
Quang (Mỹ Sơn, Quang Nam ).
Vương quốc Lâm Ấp tiếp tục được nới rộng xuống phía nam đến tận sông Ba (Tuy
Hòa), thuộc lãnh thổ Aryaru (Phú Yên) và vùng núi non phía tây lân cận (cao
nguyên Kontum, Darlac), và phía tây tới Champassak (Nam Lào), nhiều bộ lạc Thượng
sống trên dãy Trường Sơn cũng theo về triều cống. Phạm Trần Thành mất năm 472,
Lâm Ấp không có vua, nội bộ triều đình có biến động. Năm 484, một người Khmer
tên Phạm Đăng Căn Thăng (Kieou Tcheou Lo), con vua Phù Nam Jayavarman tị nạn tại
Lâm Ấp, cướp ngôi và cầm quyền trong gần 20 năm. Năm 492, con Phạm Trần Thành
là Phạm Chư Nông giết Căn Thăng giành lại ngôi báu. Phạm Chư Nông bị chết đuối
năm 498, con cháu tiếp tục trị vì đến năm 527 : Phạm Văn Tổn (Fan Wen Kuoan) trị
vì từ 498 đến 502, Phạm Thiên Khơi hiệu Devavarman (510-514) và Cao Thức Thắng với khởi hiệu là Vijayavarman hay Bật Tôi Bật Ma (526-527).
4. Triều vương thứ tư
(529-757) :Năm 529, Vijayavarman mất không người kế tự. Triều
đình Champa phong Luật Đa La Bật Ma lên làm vua, hiệu Rudravarman I. Năm 577 Luật
Đa La Bật Ma mất, con là Prasastadharma lên kế nghiệp, hiệu Phạm Phạn Chi
(Sambhuvarman). Dưới thời Phạm Phạn Chi, văn hóa champa tỏa rộng khắp Đông Nam
Á. Năm 598, nhà Tùy chiếm dóng Lâm Ấp và phân chia thành ba châu : châu Hoan
(Ty Canh), châu Ái (Hai Âm) và châu Trong (Khương). Năm 605, Phạm Phạn Chi dời
kinh đô về Sinhapura, thành phố Sư Tư (nay là Trà Kiệu, cạnh sông Thu Bồn, huyện
Duy Xuyên, tỉnh Quang Nam). Danh xưng Champa chính thức xuất hiện trong thời
này.
Năm 629 Phạm Phạn Chi mất, con là Phạm Đầu Lê (Kandharpardharma) kế nghiệp. Năm
645 Phạm Đầu Lê qua đời, vương triều champa loạn lạc. Phạm Trấn Long
(Prabhasadharma), con Đầu Lê, vừa giành được ngôi vua liền bị giết chết, dân
chúng đưa con trai cua một công chúa, em gái cua Trấn Long, tên Chư Cát Địa lên
làm vua, hiệu Bhadresvaravarman (sự ghép tên giữa thần Bradresvara và vị tổ
Bradravarman). Chư Cát Địa làm vua được một năm (646) thì bị triều thần lật đổ,
công chúa Tchou Koti, con gái cua chánh phi của Phạm Đầu Lê, được tôn lên làm nữ
vương, hiệu Jagaddharma. Đức độ cua bà Jagaddharma rất được dân chúng kính trọng.
Sau khi qua đời, nữ vương Jagaddharma được dân chúng lập đền thờ tại tháp Po
Nagar (Xóm Bóng, Nha Trang). Năm 653 Tchou Koti nhường ngôi cho chồng (người
Khmer) tên Prakasadharma (Po Kiachopamo), hiệu Vikrantavarman I. Năm 685,
Vikrantavarman I qua đời, nhường ngôi cho con là Vikrantavarman II
(Kientotamo).
Dưới thời Vikrantavarman II, văn hóa champa toa khắp Đông Nam Á, các quốc gia
lân bang đều muốn kết thân. Năm 731, Vikrantavarman II qua đời, con là
Rudravarman II (Lutolo) trị vì đến năm 757 thì mất. Con là Bhadravarman II lên
thay nhưng bị các vương tôn miền Nam hạ bệ, chấm dứt vai trò lãnh đạo
của vương triều miền Bắc.
5-Triều vương thứ năm (758-854) :Năm 757, môt tiểu vương phía Nam nổi lên hạ bệ Bhadravarman II -nhà vua
trẻ vừa lên ngôi - rồi tự xưng vương, hiệu Prithi Indravarman, chấm dứt dòng
Gangaraja phía Bắc.
Theo bia ký đọc được, Prithi Indravarman là người đã thống nhất lãnh thổ Champa một cách chính danh nhất, vì được triều thần công nhận là "người thống lãnh toàn bộ đất nước như Indra, thần của các vị thần". Tuy đất nước đã được thống nhất, lãnh thổ này vẫn chưa có tên. Khi sang Trung Hoa triều cống, không biết sứ thần của Prithi Indravarman đã giải thích như thế nào mà sử liệu cổ Trung Hoa đặt tên lãnh thổ mới của người Champa trong thời kỳ này là Hoàn Vương Quốc, "vương quyền trở về quê cũ". Để xác minh điều này, việc làm đầu tiên của Prithi Indravarman là dời kinh đô Sinhapura (thành phố sư tử hay Trà Kiệu, Quảng Nam) về Virapura (thành phố Hùng Tráng, nay là thôn Palai Bachong, xã Hòa Trinh, huyện An Phước - cách Sài Gòn 310 cây số về phía Bắc trên quốc lộ 1, tỉnh Ninh Thuận).
Theo bia ký đọc được, Prithi Indravarman là người đã thống nhất lãnh thổ Champa một cách chính danh nhất, vì được triều thần công nhận là "người thống lãnh toàn bộ đất nước như Indra, thần của các vị thần". Tuy đất nước đã được thống nhất, lãnh thổ này vẫn chưa có tên. Khi sang Trung Hoa triều cống, không biết sứ thần của Prithi Indravarman đã giải thích như thế nào mà sử liệu cổ Trung Hoa đặt tên lãnh thổ mới của người Champa trong thời kỳ này là Hoàn Vương Quốc, "vương quyền trở về quê cũ". Để xác minh điều này, việc làm đầu tiên của Prithi Indravarman là dời kinh đô Sinhapura (thành phố sư tử hay Trà Kiệu, Quảng Nam) về Virapura (thành phố Hùng Tráng, nay là thôn Palai Bachong, xã Hòa Trinh, huyện An Phước - cách Sài Gòn 310 cây số về phía Bắc trên quốc lộ 1, tỉnh Ninh Thuận).
Dưới thời Prithi Indravarman, văn minh và văn hóa Ấn Độ từ phía Nam đưa lên lấn át toàn bộ sinh hoạt của người Chăm phía Bắc ; chữ Phạn được phổ biến rộng rãi trong giới vương quyền và các nơi thờ phượng ; đạo Bà La Môn được đông đảo người theo ; đạo Phật Tiểu Thừa (Thevada) phát triển mạnh trong chốn dân gian ; đền đài, dinh thự và chùa tháp được xây dựng lên khắp nơi, nhiều nhất là tại Khu Lật (Huế), Amavarati (Mỹ Sơn), Sinhapura (Trà Kiệu)… để tạ ơn thần linh. Tuy vậy nguyên tắc tự trị của các tiểu vương quốc phía Bắc vẫn được tôn trọng, vì không thấy di ảnh hay hình tượng nữ thần Bhagavati - vị thần bảo hộ Panduranga được Prithi Indravarman chọn làm "Bà Mẹ xứ sở" để dân chúng thờ phượng,các di tích khảo cổ lãnh thổ Chiêm Thành phía Bắc.
Về "Bà Mẹ xứ sở", ngôi tháp bằng gỗ trước kia thờ nữ vương Jagadharma (646-653) được Prithi Indravarman cho xây dựng lại bằng vật liệu cứng tại Aya Tră (Nha Trang), trên một ngọn đồi cao cạnh cửa sông Cái (Xóm Bóng), để thờ tượng nữ thần Bhagavati (bằng vàng). Tháp này về sau được biết dưới tên Po Nagar, hay Tháp Bà.
Truyền thuyết Champa cho rằng Hoàn Vương Quốc trước kia do nữ vương Po Nagar cai trị trong suốt 200 năm, từ 758 đến 958. Thời gian trị vì lâu dài này là thời gian mà vương triều Panduranga thịnh hành. Nữ vương Po Nagar - còn gọi là Yan Pu Nagara, Po Ino Nagar hay Bà Đen (nguời Việt Nam gọi là Thánh Mẫu Thiên Y Ana) - là vị nữ thần được tạo nên bởi áng mây trời và bọt biển, người tạo dựng ra quả đất, sản sinh gỗ quí, cây cối và lúa gạo. Bà có 97 phu quân, trong đó chỉ một mình Po Yan Amo là người có uy quyền và được tôn trọng hơn cả. Bà có 38 người con gái, tất cả đều hóa thân thành nữ thần, trong đó có ba người được người Champa chọn làm thần bảo vệ đất đai và còn thờ phượng cho tới ngày nay : Po Nagar Dara, nữ thần Kauthara (Khánh Hòa) ; Po Rarai Anaih, nữ thần Panduranga (Ninh Thuận) và Po Bia Tikuk, nữ thần Manthit (Phan Thiết).
Prithi Indravarman là một quân vương tài giỏi, đất nước thái bình và rất phồn vinh. Sự giàu có của Hoàn Vương Quốc hấp dẫn các vương quốc lân bang, đặc biệt là Srivijaya (Palembang),Malayu (Malaysia),Javadvipa (Java), Nagara Phatom (Thái Lan), Sriksetra (Miến Điện) và Angkor (Chân Lạp) ; họ đến để trao đổi hoặc chờ dịp cướp phá.
Năm 774, quân
Ngay khi Prithi Indravarman vừa tử trận, một người cháu gọi ông bằng cậu tên Satyavarman được hoàng tộc tôn lên thay thế. Nhưng vừa lên ngôi, Satyavarman đã cùng hoàng tộc chạy lên miền Bắc (Bình Định) lánh nạn. Tại đây, nhà vua được cộng đồng người Chăm và người Thượng địa phương (Bahnar, Hré) giúp thành lập một đạo quân hùng mạnh tiến xuống Kauthara tấn công quân Nam Đảo. Trước uy lực của Satyavarman, quân
Hay tin Satyavarman từ trần, năm 787, quân Java từ ngoài khơi lại tràn vào Virapura cướp phá, sát hại rất nhiều binh sĩ và dân chúng, phá tháp Hòa Lai thờ thần Bhadradhipatisvara tại Virapura. Quân
Đầu thế kỷ thứ 9, Indravarman I mất, em rể là hoàng thân Deva Rajadhiraja lên
thay, hiệu Harivarman I, mở đầu một trang sử mới.
Trong hai năm đầu tân vương dồn mọi nổ lực xây dựng lại đất nước và phục hồi thế
lực quân sự. Để nhận thêm sự ủng hộ của quần chúng, nhà vua sai tể tướng
Senapati Pangro trùng tu lại tháp Po Nagar và xây thêm hai tháp mới cạnh tháp
chính, một ở hướng nam và một ở hướng tây-bắc để dân chúng đến chiêm bái tượng
nữ thần Bhagavati, được tạc lại bằng đá hoa cương.
Sau những cố gắng vượt bực, Hoàn Vương Quốc hưng thịnh trở lại, Harivarman I
quyết định trả thù những quốc gia đã tấn công và cướp bóc đất nước của ông trước
đó. Tháng 1-803, quân Chăm tấn công châu Hoan (Tỷ Cảnh, nay là Thanh Hóa) và
châu Ái (Hải Âm, nay là Nghệ Tĩnh), mang về rất nhiều phẩm vật. Với lượng lúa gạo
mang về miền Bắc, thủy quân Hoàn Vương Quốc xuất dương trừng phạt vương quốc
Kelantan ở Java và Patani ở Malaysia .
Khi trở về, nhà vua cho người lên Tây Nguyên mộ thêm binh sĩ và được sự hưởng ứng
nồng nhiệt của người thiểu số. Với đạo quân này, hai lần (nam 803 và 817),
Harivarman I tiến vào cao nguyên Đồng Nai thượng, đánh bại quân Khmer và kiểm
soát một vùng đất rộng lớn.
Để có thêm nguồn lương thực, năm 808, Harivarman I xua quân đánh chiếm châu
Hoan và châu Ái lần nữa, nhưng bị thái thú Trương Châu đánh bại : 59 người
trong hoàng tộc bị bắt sống, nhiều thớt voi, tàu chiến và quân trang quân dụng
bị tịch thu, hơn 30.000 người bỏ xác tại trận. Về con số ba vạn người bị chết
này, tưởng cũng nên tương đối hóa nó vì thời đó người Hoa chưa phát minh ra số
"không" (zéro) do đó cái gì nhiều quá, đếm không xuể đều được ghi là
"vạn" ; con số ba vạn ở đây có thể do nhiều đơn vị khác nhau cùng báo
cáo và cũng có thể được thổi phồng để được triều đình trung ương khen thưởng,
vì qua năm sau, năm 809, Harivarman I tái chiếm châu Hoan và châu Ái một cách dễ
dàng và mang về rất nhiều phẩm vật.
Không rõ Harivarman I mất năm nào nhưng con trai là tiểu vương (pulyan) đất
Panduranga lên kế vị năm 817, hiệu Vikrantavarman III. Vì tân vương còn nhỏ tuổi,
triều thần phong tể tướng Senapati Par, tiểu vương đất Manidhi (?), làm phụ
chính. Viên tể tướng này đã tổ chức nhiều cuộc tấn công vào lãnh thổ Kambujas (Kampuchea
ngày nay), do vua Jayavarman II cai trị, phá nhiều thành trì khmer trên cao
nguyên Đồng Nai thượng. Để tạ ơn Bà Mẹ Xứ Sở, trong khuôn viên Po Nagar, Senapati Par cho xây thêm hai tháp mới
về phía tây và tây-nam, thời gian sau xây thêm ba tháp khác : một tại khu trung
tâm thờ Sri Shambu, một phía tây-bắc thờ Shandhaka và một phía nam thờ Ganesha.
Mặc dù vậy, trung tâm chính trị và tôn giáo vẫn được duy trì tại Virapura, thủ
phủ Panduranga.
Dưới thời Vikrantavarman III, Hoàn Vương Quốc rất
là giàu có, quân lực rất là hùng mạnh. Một bia ký, tìm được tại tháp Po Nagar,
mô tả Vikrantavarman III như sau : "[Người] đeo những dây vàng có đính ngọc
trai và ngọc bích, giống như mặt trăng tròn đầy đặn, che một chiếc lọng trắng
bao phủ cả bốn phương trời bởi vì lọng còn sâu hơn cả đại dương, thân thể [Người]
trang sức phủ kín bởi vương miện, đai, vòng, hoa tai, những tràng hồng ngọc...
bằng vàng, từ đó phát ra ánh sáng giống như những cây leo [sáng lấp
lánh]". Thư tịch cổ Trung Hoa (Cựu Đường thư) mô tả thêm : "[Vua] mặc
áo cổ bối bạch diệp... trên đeo thêm trân châu, dây chuyền vàng làm thành chuỗi...".
Đẳng cấp quí tộc và phụ nữ cung đình cũng đeo trang sức quí : "Phu nhân mặc
vải cổ bối triệu hà... mình trang sức dây chuyền vàng, chuỗi ngọc
trai"Quân đội trang bị nhiều loại vũ khí khác nhau...".
Với thời gian, Hoàn Vương Quốc trở thành nạn nhân của sự giàu có của mình, các
thế lực lân bang liên tục tràn váo cướp phá. Trong suốt hơn 20 năm, từ 854 đến
875, quân của đế quốc Angkor đã nhiều lần tiến đánh Hoàn Vương Quốc, chiếm nhiều
vùng đất rộng lớn dọc tả ngạn sông Đồng Nai, đôi khi còn băng cao nguyên
Langbian đột nhập vào lãnh thổ Panduranga cướp phá.
Vikrantavarman III mất năm 854 (được thờ dưới pháp danh Vikrantasvara), không
người kế tự, nội bộ triều đình xảy ra tranh chấp.
6-Triều
vương thứ sáu (859-991) : Sau hơn 20 năm chinh chiến với Angkor quyền hành
trong nước lọt dần vào tay các dòng vương tôn miền Bắc, chính họ đã chống trả lại
các đợt xâm lăng của đế quốc Angkor .
Năm 859, một vương tôn mang nhiều chiến công, tên Laksmindra Bhumisvara
Gramasvamin, được triều thần đưa lên ngôi, hiệu Indravarman II.
Mặc dù là truyền nhân đích tôn của các đời vua trước (ông nội là Rudravarman
II, cha là Bhadravarman II), Indravarman II lên ngôi do "dày công tu luyện,
do sức mạnh của trí tuệ trong sáng", vì Indra là thần trên các vị thần.
Sau khi qua đời ông được dân chúng thờ dưới tên Paramabuddhaloka.
Dưới thời Indravarman II, trung tâm quyền lực chính trị và tôn giáo được dời
lên phía Bắc tại Indrapura - thành phố Sấm Sét (nay là Đồng Dương, cách Đà Nẵng
hơn 50km về phía nam) trên bờ sông Ly Ly (một nhánh sông Thu Bồn, cách thánh địa
Trà Kiệu 15 cây số). Vị trí của Indrapura rất thuận lợi trong việc phòng thủ chống
lại những cuộc tiến công của quân Khmer và quân Nam Đảo.
Phật giáo Đại Thừa cũng phát triển mạnh trong giai đoạn này, nhiều nhà sư Trung
Hoa được phép đến Indrapura truyền đạo, xây chùa chiền và thu nạp giáo đồ,
nhưng không mấy thịnh hành. Indravarman II là người đã dung hòa được hai tôn
giáo lớn nhất thời đó (Bà La Môn và Phật giáo) trong dân gian và xã hội : nhiều
Phật viện (Vihara), Phật đường, tu viện, đền thờ được xây dựng khắp nơi lãnh thổ,
một bảo tháp dài 1.330m tên Laksmindra Lokesvara được xây dựng cạnh đền thờ Bà
La Môn (một tượng Buddha thời này, cao 1,14m, được tìm thấy tại Đồng Dương năm
1978). Đẳng cấp tu sĩ (Brahman) rất được trọng vọng, đạo Bà La Môn rất thịnh
hành. Indravarman II rất tự hào vì các đại thần dưới quyền đều là những người
Brahman và Ksatriya, và chính nhà vua cũng là một Brahman.
Quốc hiệu Champapura (đất nước của người Chăm, theo tiếng Phạn cổ) được
Indravarman II chính thức sử dụng khi tôn vinh đất nước mình. Sử sách Trung Hoa
phiên âm là Chang Cheng (từ chữ Campapura hay Campa mà ra), tiếng Việt là Chiêm
Thành hay Chiêm Bà, tiếng Tây phương là Champa. Trong thực tế, Champa là tên của
một cây có hoa màu trắng, nhụy vàng, hương rất thơm. Tiếng Việt gọi là hoa đại
hay bông sứ. Loài hoa này được trồng quanh cung điện của các vua và đền thờ của
người Champa ; sau này được trồng tại nhiều nơi thờ tự của các tôn giáo khác ở
miền Trung và các gia trang có sân vườn rộng. Mỗi dịp lễ lạc người Champa thường
hái bông sứ dâng lên bàn thờ, mùi hương tỏa ngát không gian của đền thờ. Champa cũng là tên một địa danh miền bắc Ấn Độ, trên con
sông Hasdo, tỉnh Madhya Pradesh, gần thành phố Bhagalpur (Bilaspur).các vị lãnh
đạo Champa thường đặt tên triều vương, lãnh thổ và thành phố của mình theo tên
các địa danh đã có tại Ấn Độ. Champa dưới thời Indravarman II rất là hùng mạnh,
hai miền Nam-Bắc được thống nhất trong hòa bình.Trong những năm 861, 862 và
865, quân Chiêm Thành tổ chức nhiều cuộc tấn công vào phủ An Nam, mang về rất
nhiều lương thực và của cải.Năm 889 vua Angkor Yasovarman hai lần tiến quân vào
Champa nhưng đều bị đánh bại và chết trong rừng sâu (năm 890), một phần đất
trên Đồng Nai thượng và lãnh thổ đông-bắc Angkor (cao nguyên Rattanakiri và
Mondolkiri) đặt dưới quyền kiểm soát của Champa
Năm 890 Indravarman II mất, cháu là hoàng thân Jaya Sinhavarmadeva Campapura
Paramesvara kế vị, hiệu Jaya Sinhavarman I. Tân vương được nhiều danh tướng
Ajna Jayendrapati, Ajna Narendranpavitra, Sivacarya, Po Klun Pilih Rajadvara… tận
tình giúp đỡ. Nhà vua tiếp tục cho xây thêm nhiều đền đài tráng lệ, tu viện Phật
giáo quanh thánh địa Đồng Dương. Tượng nữ thần Bhagavati được cho đúc lại bằng
vàng thờ trong chính điện tháp Yan Po Nagara.
Uy quyền của vương triều Indrapura nới rộng lên đến Tây Nguyên. Cao nguyên
Darlac-Kontum do một tiểu vương người Thượng, tên Mahindravarman, cai trị. Nhiều
đền đài Chăm được xây cất trong thung lũng sông Bla gần Kontum (đền Kon Kor được
xây cất năm 914 thờ thần Mahindra Lokesvara). Jaya Sinhavarman I mất năm 898, con là Jaya Saktivarman lên thay (899-901). Những
vị vua tiếp theo - Bhadravarman II (901-918) và con là Indravarman III
(918-959) - tiếp tục sự nghiệp của cha ông trong lãnh vực tôn giáo:đạo Bà La
Môn trở thành quốc giáo.
Qua trung gian những gia đình hoàng tộc gốc Nam Đảo - Rahdar Ahmed Abu Kamil,
Naqid Amr Ali - trốn chạy chính sách cai trị khắc nghiệt của những tiểu vương
Java, được tể tướng Po Klun Pilih Rajadvara nhận vào tị nạn, đạo Hồi chính thức
được phổ biến trong chốn hoàng gia. Với thời gian, đạo Hồi được đông đảo quần
chúng bình dân tin theo. Nhân cơ hội, những gia đình quí tộc tị nạn này truyền
bá luôn văn minh và văn hóa Nam Đảo, đặc biệt là lối kiến trúc và cách điêu khắc,
cho nghệ nhân Chăm. Vào thời này, người Chăm đã nắm vững kỹ thuật đi biển, biết
buôn bán ,giao hảo tốt với các quốc gia lân bang:Trung Hoa và Java.
Vừa lo ngại vừa ganh tị sức mạnh và sự giàu có của Champa, năm 945 vua Khmer là
Rajendravarman II cùng binh sĩ băng rừng từ Angkor vào Kauthara, cướp tượng nữ
thần Bhagavati bằng vàng - vị thần bảo vệ xứ sở và là biểu tượng uy quyền của
Champa - trong tháp Yan Po Nagara mang về nước ; từ sau ngày đó, vương triều
Indravarman III suy yếu hẳn.
Dưới thời Indravarman III, biến cố quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn vong của
vương quốc Champa là sự hình thành một vương quốc độc lập phía Bắc nước Đại Cồ Việt, nhưng chỉ thực sự để lại hậu quả các
triều vua sau.Năm 959,IndravarmanIII từ trần,con là Jaya IndravarmanI lên thay
năm 960. Việc làm đầu tiên của tân vương là cho tạc lại tượng nữ thần Bhagavati
bằng đá hoa cương để dân chúng đến thờ, năm 965 mới xong. Năm 972, Jaya
Indravarman Iraq
từ trần, con là Phê Mi Thuế, Paramesvaravarman I (972-982), lên thay. Sinh hoạt
chính trị của Champa trong giai đoạn này rất là hỗn độn, năm 978, một người tên
Kinan Tache mang phẩm vật sang Trung Hoa triều cống để được phong làm vua
Champa nhưng không được nhà Tống nhìn nhận. Trong lúc đó, lợi dụng tình trạng
loạn lạc tại Đại Cồ Việt (loạn thập nhị sứ quân, từ 944 đến 972), quân Champa
nhiều lần tiến lên đánh phá những quận huyện ở phía nam, gây nhiều thiệt hại
nhân mạng và tài sản.
Năm 979, hay tin Đinh Tiên Hoàng bị ám sát, Ngô Nhật Khánh, một sứ quân Đại Cồ
Việt, thuyết phục vua Paramesvaravarman I, dẫn hơn một ngàn chiến thuyền từ
Chiêm Thành vào chiếm Hoa Lư, nhưng không thành. Ngô Nhật Khánh bị giết, quân
Champa phải rút về.
Tình hình chính trị của Đại Cồ Việt trong giai đoạn này cũng không lấy gì làm
sáng sủa : triều đình không có vua, Hạng Lang tức Đinh Vệ Vương còn quá nhỏ (6
tuổi), mẹ là thái hậu Dương Vân Nga không thể một mình đảm đương việc nước vì
phía Bắc quân Tống lăm le tiến xuống, phía Nam quân Champa sẵn sàng tiến lên.
Năm 980, Dương Vân Nga nhường cho Lê Hoàn làm vua Đại Cồ Việt, hiệu Lê Đại Hành
hoàng đế. Tân vương sai sứ sang Trung Hoa báo tin, dâng vài tù binh Champa vừa
bắt được làm quà biếu. Vua Tống nhận tặng phẩm nhưng lại muốn duy trì ảnh hưởng
tốt với Chiêm Thành, sai thống đốc Quảng Châu cho những tù binh Chiêm ăn uống rồi
thả về nước.
Bực mình trước tin này, Lê Đại Hành sai Từ Mục và Ngô Tử Canh sang Chiêm Thành
yêu cầu vua Champa sang bái kiến. Paramesvaravarman I, sau khi nhận lại tù binh
từ nhà Tống và tin chắc sẽ được Bắc triều bênh vực nếu bị Lê Đại Hành tấn công,
đã không những không sang bái kiến mà còn bắt giam sứ giả. Lê Đại Hành rất giận
nhưng chưa có phản ứng.
Sau khi đánh đuổi quân Tống ra khỏi lãnh thổ phía Bắc cuối năm 980, Lê Đại Hành
củng cố lại lực lượng chuẩn bị tấn công Chiêm Thành. Đầu năm 982, nhà vua dẫn đại
quân tiến vào Indrapura. Đây là cuộc Nam chinh đầu tiên của người Việt
vào đất Chiêm Thành. Paramesvaravarman I tử trận ngay tại cửa thành, chấm dứt
triều đại Indrapura. Lê Đại Hành tiến vào kinh đô Indrapura (Đồng Dương), giết
tướng giữ thành Tỳ My Thuế, bắt sống hàng trăm vũ nữ trong hậu cung, tịch thu rất
nhiều báu vật mang về nước. Bên ngoài binh lính Việt đốt phá thành trì, san phẳng
lăng tẩm các vị vua Champa, bắt theo hàng ngàn tù binh, trong đó một nhà sư Ấn
Độ tên Thiền Trước Tăng (bhiksu). Lãnh thổ Bắc Champa bị chiếm đóng từ 982 đến
983.
Sau chiến thắng này, văn hóa và nghệ thuật (nhất là âm nhạc) Champa chính thức
được du nhập vào đời sống cung đình và dân gian Việt. Đền đài, dinh thự tại Hoa
Lư được trang trí bằng những chiến lợi phẩm do thợ Champa chạm trổ và sản xuất
ra.
Indravarman IV (Xá Lợi Đà Ngô Nhựt Hoàn) – được hoàng triều tôn lên làm vua khi
Paramesvaravarman I vừa tử trận - chạy vào Panduranga lánh nạn và chịu triều cống
nhà Lê mới được yên. Năm 985 Nhựt Hoàn sai pháp sư Kinkoma sang Trung Hoa xin
nhà Tống cứu viện nhưng được khuyên là nên duy trì quan hệ tốt với Đại Cồ Việt.
Nội bộ nhà Lê cũng xảy ra tranh chấp về quyền lãnh đạo trên lãnh thổ Bắc
Champa, người thì đề nghị cai trị trực tiếp, người thì khuyên tản quyền. Cuối
cùng một giải pháp trung gian được áp dụng : nơi nào còn đông đảo người Champa
cư ngụ thì giao cho người địa phương quản lý, nơi nào đông dân cư gốc Kinh sinh
sống thì triều đình Đại Cồ Việt đặt quan cai trị trực tiếp. Sự kiện này chứng tỏ
sự cộng cư giữa các nhóm cư dân địa phương sau khi Lâm Ấp giành được độc lập vẫn
còn khắng khít, nhưng từ khi người Kinh bắt đầu cai trị trực tiếp lãnh thổ Bắc
Champa chống đối bắt đầu xảy ra.
Năm 983, một quản giáp (trưởng làng) người Kinh sinh sống trên lãnh thổ Bắc
Champa tên Lưu Kỳ Tông nổi lên chém đầu một người con nuôi của Lê Đại Hành, lúc
đó là một quan cai trị trực tiếp, xây thêm thành lũy quanh Phật Thành (Fo Che)
phòng thủ lãnh thổ Bắc Champa, rồi mộ hơn 10.000 người và nhiều voi ngựa đánh Đại
Cồ Việt. Lê Đại Hành tiến quân xuống đánh nhưng cuộc chiến đã không xảy ra, vì
sau khi vượt núi Đông Cổ và sông Bà Hòa (Thanh Hóa), đại quân của nhà Tiền Lê
chịu không nổi sương lam chướng khí phải rút về. Năm 986, hay tin vua
Indravartman IV (Ngô Nhựt Hoàn) của người Champa từ trần, Lưu Kỳ Tông liền tự
xưng vương và xin nhà Tống thừa nhận. Sự tiếm quyền này xúc phạm đến tín ngưỡng
của người Chăm vì Lưu Kỳ Tông không xuất thân từ vương tộc hay đẳng cấp tôn giáo
nào, và là một đe dọa cho cộng đồng người Hoa địa phương. Một người Champa gốc
Hoa tên Poulo Ngo dẫn theo khoảng 150 người đổ bộ lên đảo Hải Nàm và vùng duyên
hải nam Quảng Châu tị nạn. Năm 988, thêm 300 người khác do Ho Siuan dẫn đầu đổ
bộ lên bờ biển Quảng Châu. Người Chăm gốc Nam Đảo còn lại theo Bằng Vương La
(Cu-thì-lợi Hà-thanh-bài Ma-la),một người Cham sinh
sống tại Bàn.Thành, kháng chiến chống Lưu Kỳ Tông.
Triều vương thứ bảy
(991-1044) : vương triều Vijaya
Năm 989 Lưu Kỳ Tông, một người Kinh tự nhận là vua lãnh thổ Champa phía
Bắc từ năm 983, bị Bằng Vương La (Cu-thì-lợi Hà-thanh-bài Ma-la), một vương tôn
Champa phía Nam, nổi lên lật đổ và được dân chúng tôn lên làm vua, hiệu
Harivarman II (Dương-to-pai hay Dương Đà Bài). Harivarman II xưng vương tại Phật
Thành (Vijaya), nhưng tổ chức vương quyền vẫn đặt tại Indrapura (Đồng Dương), ý
muốn đề cao nguồn gốc thần quyền của ông từ bộ tộc Dừa. Harivarman II được nhiều
sử gia xác nhận là người sáng lập vương triều thứ bảy của Champa
Năm 990, một người Việt tên Dương Tiến Lộc - làm quan quản giáp đi thu
thuế tại châu Ái và châu Hoan (Thanh Hóa, Nghệ An) - hô hào người Kinh và Chăm
nổi lên chống lại nhà Lê. Dương Tiến Lộc có yêu cầu Harivarman II giúp đỡ nhưng
bị từ chối. Hay tin có phản loạn, Lê Đại Hành liền mang quân vào đánh dẹp,
Dương Tiến Lộc cùng những người phản loạn bị giết chết, hơn 360 tù binh Chăm bị
bắt mang về miền Bắc, một số được tuyển làm nài điều khiển voi trong binh lực
nhà Lê.
Năm 992, quan hệ giữa nhà Lê và vương triều Vijaya trở nên bình thường
và, để tỏ lòng biết ơn Harivarman II từ chối không ủng hộ cuộc phản loạn của
Dương Tiến Lộc, Lê Đại Hành trả tự do cho hơn 300 tù binh Chăm về nước. Cũng
nên biết làn ranh phân chia Đại Cồ Việt và Chiêm Thành trong giai đoạn này được
xác định tại đèo Ngang, tức địa phận Di Luân, gần cửa sông Gianh (Quảng Bình).
Cùng thời gian này, quan hệ giữa Chiêm Thành và Trung Hoa trở nên bình thường,
Harivarman II được nhà Tống công nhận, hai bên trao đổi nhiều phẩm vật quí giá.
Nhân dịp này Harivarman II yêu cầu vua Tống giao trả những người Champa tị nạn
tại Quảng Châu trước đó (986-988) về lại Champa. Mối giao hảo thân thiết giữa Champa và Trung Hoa không làm vua Lê hài
lòng. Năm 994, Lê Đại Hành cho người vào Viyaja yêu cầu Harivarman II triều cống
nhưng bị từ chối, vua Lê liền cất quân sang đánh. Quân Chiêm tuy có đẩy lui được
cuộc trừng chinh này nhưng hao tổn cũng khá nhiều, Harivarman II chấp nhận sẽ
triều cống trở lại. Nhưng Lê Đại Hành yêu cầu phải triều cống tức khắc và buộc
Harivarman II phải đích thân sang bái kiến mới vừa lòng. Vua Chiêm liền sai một
thân tín tên Chế Đông sang thay mặt, Lê Đại Hành trách là vô lễ ; Harivarman II
phải sai cháu là Chế Cai sang chầu và hứa sẽ không quấy phá vùng biên giới nữa
mọi việc mới yên. Tuy vậy trong những năm 995 và 997, do thiếu đói vì mất mùa
quân Chiêm có tràn sang cướp phá một số làng xã dọc vùng biên giới rồi rút về
liền. Lê Đại Hành cũng chỉ củng cố lại một số địa điểm phòng thủ chứ không trả
đũa ; một số gia đình nông dân nghèo gốc Kinh được đưa vào lập nghiệp trên một
phần lãnh thổ Bắc Chiêm Thành, sau này có tên là Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh.
Năm 999, Harivarman II mất, con là Po Alah (Po Ovlah hay Âu Loah) - một
tín đồ Hồi giáo trung kiên đã từng sang La Mecque hành hương - lên thay, hiệu
Yanpuku Vijaya (Dương-phổ-cu Bi-trà-xá-lợi). Trung tâm quyền lực đặt tại
Vijaya, tức thành phố Chiến Thắng (còn có tên là Phật Thệ, Phật Thành hay Chà
Bàn, Đồ Bàn, nay là thị trấn An Nhơn). Toàn bộ vương tộc tại Indrapura (Đồng
Dương) được đưa về Sri Bini (Qui Nhơn) định cư, vì nơi này ít bị uy hiếp hơn
khi có chiến tranh. Dưới thời Yanpuku Vijaya (999-1010), đạo Hồi cùng với đạo
Bà La Môn phát triển mạnh mẽ. Tân vương tổ chức lại quân đội và cử nhiều phái
đoàn sang Trung Hoa thông sứ với hy vọng được nhà Tống bảo vệ khi bị Đại Cồ Việt
tấn công.
Năm 1005, hay tin Lê Đại Hành mất, Yanpuku Vijaya mang quân tấn công Đại
Cồ Việt, lúc đó do Lê Long Đĩnh (1005-1009), một hôn quân, cai trị. Hai bên giữ
thế giằng co, bất phân thắng bại trong 40 năm (1005-1044). Yanpuku Vijaya mất
năm 1010, Sri Harivarmadeva lên thay, hiệu Harivarman III. Tân vương cai trị đến
năm 1018 thì mất, Chế-mai-pa Mộ-tài (Chemeipai Moti) lên thay, hiệu
Paramesvaravarman II.
Trong lãnh thổ người Kinh, Lý Công Uẩn "lật đổ" nhà Lê, thành lập nhà Lý (năm 1010), hiệu Thái Tổ, đổi quốc hiệu là Đại Việt. E
ngại uy dũng và mến mộ đức độ của Lý Thái Tổ, Chiêm Thành và Chân Lạp cử người
sang triều cống. Giao hảo giữa Champa và Đại Việt rất là tốt đẹp, nhưng chỉ kéo
dài được mười năm. Năm 1020, do mất mùa và đói kém, quân Chiêm Thành tiến chiếm
hai châu Bố Chánh và Ma Linh (Quảng Bình). Năm 1021, thái tử Phật Mã, trưởng
nam của Lý Thái Tổ, chiếm lại hai châu bị mất. Năm 1026, quân của thái tử Phật
Mã chiếm luôn châu Điền (Thừa Thiên). Lý Thái Tổ mất năm 1028, Phật Mã lên
thay, xưng hiệu Thái Tôn. Vua Chiêm Thành không những không chịu thông sứ với Đại
Việt mà còn xua quân đánh phá các làng ven biển tại châu Điền, châu Ái (Thanh
Hóa) và châu Hoan (Nghệ An). Sau khi củng cố lại lực lượng tại châu Hoan, Lý
Thái Tôn sát nhập ba châu Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh vào lãnh thổ Đại Việt và
cử võ quan vào trấn thủ.
Năm 1030, Paramesvaravarman II qua đời, triều
đình Viyaja rối loạn. Một vương tôn tên Chế Li (Cheli) tiếm ngôi, xưng hiệu
Vikrantavarman IV. Nội chiến liền xảy ra, rất là khốc liệt. Con cháu
Paramesvaravarman II nổi lên chống lại. Năm 1038, con Vikrantavarman IV là
hoàng tử Địa Bà Thích cùng với một số thủ hạ trong binh đội địa phận Bố Chánh
(hơn 100 người do các tướng Bố Cả, Lan Đồ Thích, Lạc Thuẩn, La Kế và A Thát
Thích chỉ huy) nổi lên giành ngôi với vua cha nhưng không thành, phải chạy vào
Đại Việt xin tị nạn. Tại đây Địa Bà Thích hai lần xin nhà Lý (1039 và 1040) đưa
về làm vua, nhưng không được chấp nhận.
Trước đe dọa của chính con mình, năm 1041 Vikrantavarman IV - sau khi
liên minh được với vương quốc Angkor là vua Surayavarman I - yêu cầu nhà Lý
giao hoàng tử Địa Bà Thích phản nghịch về xử tội, nhưng không thành. Quân Chăm
liền tấn công Đại Việt, Vikrantavarman IV bị giết ngay trong trận đầu, con là
thái tử Sạ Đẩu (Po Tik) lên thay, hiệu Jaya Sinhavarman II. Tân vương sai sứ
sang Trung Hoa xin vua Tống tấn phong đồng thời cũng xin được bảo vệ, nhờ đó được
yên bình vài năm. Năm 1043, quân Champa dùng thuyền đổ bộ vào một số làng xã
ven biển đánh phá và chỉ rút lui khi quân Lý tiến tới.
Năm 1044, viện cớ Champa không chịu triều cống từ hơn 16 năm qua và còn
quấy rối lãnh thổ, Lý Thái Tôn dẫn đầu một đại binh gồm 10.000 thủy quân xuống
đánh. Jaya Sinhavarman II vừa tổ chức phản công vừa cho người sang Trung Hoa cầu
cứu. Quân Chiêm chận quân Đại Việt tại phía nam sông Thu Bồn (Quảng Nam) nhưng
bị thua to: gần 30.000 binh sĩ và hơn 60 voi trận phơi thây trên chiến trường,
hơn 5.000 quân Champa và 30 voi trận bị bắt sống. Jaya Sinhavarman II cũng bị tử
thương trong trận này, tướng Quách Gia Gi (Isvaras) liền cắt lấy đầu mang sang
trại vua Lý làm lễ vật xin hàng. Lý Thái Tôn thấy quân Champa bị giết quá nhiều
liền ra lệnh không cho binh sĩ giết người vô cớ. Quân Đại Việt tiếp tục tiến xuống
phía Nam, chiếm đế đô Phật Thệ (Vijaya hay Đồ Bàn), bắt được vương phi Mỹ Ê
cùng nhiều cung nữ,nghệ nhân mang về đất Bắc.
Trên đường về nước, khi đến sông Lý Nhân (sông Hương), Lý Thái Tôn cho
người mời Mỵ Ê sang chầu nhưng bà nhảy xuống sông tự tử để giữ tiết với chồng.
Quý mến sự thủy chung này, vương phi Mỵ Ê được Lý Thái Tôn phong tước Hiệp
chánh hộ thiên và cho lập đền thờ. Những tù binh Chiêm Thành sau đó được cấp ruộng
đất và cho định cư tại Hưng Hóa (Nghệ An) trong hai xã Vĩnh Khương và Đăng
Châu. Nông dân Đại Việt cũng di cư vào các vùng đất mới tại Bố Chánh, Địa Lý và
Ma Linh lập nghiệp. Trong số tù binh Champa có một thiền sư Phật giáo tên Thảo
Đường. Tăng sư Thảo Đường lập ra phái Thiền tông thứ ba tại Đại Việt. Nhiều
chùa Phật giáo Tiểu Thừa tại miền Bắc Việt Nam (chùa Vạn Phúc ở Bắc Ninh, chùa
Thiên Phúc ở Sơn Tây) do nhân công gốc Chăm xây dựng. Thợ Chăm dạy cho thợ Đại
Việt cách đúc tượng Phật và xây cất chùa kiểu Ấn Độ. Nghệ nhân Chiêm Thành dạy
cho các cung nữ triều đình nhà Lý các điệu nhạc Chiêm Thành (các điệu nam ai,
nam oán...).
Triều vương thứ tám
(1044-1074) :
Quách Gia Gi là một vương tôn thuộc đẳng cấp Ksatriya (chiến sĩ). Sau
khi đầu hàng nhà Lý, ông được triều thần tôn lên làm vua năm 1044, hiệu Jaya
Paramesvaravarman I. Trước một đất nước bị kiệt quệ vì chiến tranh, Quách Gia
Gi một mặt phải giao hảo tốt với Trung Hoa và Đại Việt để được yên thân, mặt
khác tập trung sức lực còn lại bình định loạn lạc ở phía nam. Trước kia, theo
thỏa hiệp giữa Vikrantavarman IV và Surayavarman I (vương quốc Angkor), quân
Khmer vào giúp Champa dựng trại tại Panduranga, khi Vikrantavarman IV mất quân
Khmer không những không chịu rút quân về mà còn muốn chiếm giữ luôn lãnh thổ
Panduranga.
Năm 1050, viện cớ một tiểu vương tại Panduranga không tuân phục triều
đình trung ương, Jaya Paramesvaravarman I cùng cháu là hoàng thân Yavaraja
Mahasenapati mang quân chinh phạt và cũng nhân dịp đánh đuổi quân Khmer ra khỏi
lãnh thổ. Tiểu vương Panduranga thua trận, một số binh sĩ và dân chúng đất
Pănrăn (Phan Rang) phải trốn trong các hầm đất, hang động hoặc chạy lên núi trốn,
một số khác chạy theo quân Khmer về bên kia biên giới lánh nạn. Toàn bộ tài sản,
súc vật của dân chúng Pănrăn bị tịch thu mang về Vijaya làm chiến lợi phẩm ; những
tù binh bị mang về làm nô lệ và hạ xuống làm đẳng cấp Sudra. Tiểu quốc
Panduranga bị đặt dưới quyền cai trị trực tiếp của triều đình trung ương
Vijaya. Trong giai đoạn này, người Champa chạy loạn lên Tây Nguyên (đặc biệt là
cao nguyên Đắc Lắc) lánh nạn một số đã ở lại định cư vĩnh viễn, hòa trộn với những
nhóm dân cư có trước để thành người Rhadé.
Dẹp xong loạn phía Nam ,
Jaya Paramesvaravarman I xây dựng lại đất nước. Nhà vua cho dựng lại các tượng
đài bằng đá hoa cương trong tháp Po Nagar, cấp cho những vị tu sĩ giữ đền 50 nô
lệ Chăm, Khmer, Hoa, Miến, Xiêm, 15 cân vàng, 15 cân bạc, và nhiều vật dụng quí
giá khác. Nhà vua mất năm 1060, con trai trưởng lên kế vị hiệu Bhadravarman
III, trị vì được một năm (1060-1061) thì mất. Năm 1061, em trai của
Bhadravarman III là Chế Củ lên thay, hiệu Rudravarman III. Rudravarman III là một
người tinh khôn, một mặt giao hảo bình thường nhà Lý để tránh bị nghi ngờ, mặt
khác chuẩn bị quân sĩ tiến đánh Đại Việt. Năm 1068, Rudravarman III mang quân
đánh vào các làng của người Việt tại Ma Linh và Địa Lý, quân Lý thua phải rút lên
phía Bắc.
Năm 1069, Lý Thánh Tôn (lên ngôi năm 1054) cùng Lý Thường Kiệt mang
30.000 quân và 200 chiến thuyền tiến chiếm Sri Bini (Qui Nhơn), rồi đế đô
Vijaya (Bình Định), giết tướng giữ thành là Bố Bì Đà La trên sông Tu Mao (nay
là Hà Giao). Rudravarman III băng rừng chạy sang Chân Lạp tị nạn. Tại đây hoàng
gia Chăm bị người Khmer bạc đãi, Rudravarman III về lại Vijaya chịu cho quân Đại
Việt bắt sống, cùng với 3.000 quân và gia quyến, hơn là qui thuận Angkor. Tuy vậy
thành Vijaya vẫn bị quân Đại Việt tràn vào đốt phá trước khi rút về nước. Dân số
Vijaya lúc đó được ghi nhận là hơn 2.560 gia đình. Để chuộc lại tự do,
Rudravarman III xin dâng ba tỉnh phía bắc Champa gồm Bố Chánh (hay Bố Chính), Địa
Lý và Ma Linh (Quảng Bình và bắc Quảng Trị ngày nay). Lãnh địa Indrapura bị xóa
tên và trở thành ba tỉnh của Đại Việt. Nhà Lý đổi tên Ma Linh thành châu Minh
Linh, Địa Lý thành châu Lâm Bình, châu Bố Chánh được giữ nguyên tên.
Thật ra ba châu Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh đã thuộc về Đại Việt từ lâu,
từ đời nhà Tiền Lê (năm 982), cách đó gần 80 năm. Do sức ép về dân số, nhiều
gia đình nông dân nghèo khó không có đất canh tác trên đồng bằng sông Hồng và
sông Cả đã tự động di cư đến đây rồi khai phá đất hoang và canh tác hoa mầu.
Trong cuộc sống cộng cư, với thời gian, có thể những nhóm di dân cư này đã hòa
trộn với các nhóm dân cư gốc Kinh có mặt từ trước, khi vương quốc Lâm Ấp được
thành hình, hoặc với người Chăm địa phương từ nhiều đời để tạo thành các nhóm
"dân miền Trung". Yếu tố Chăm do đó không còn mạnh mẽ, nếu không muốn
nói là mất hẳn ảnh hưởng trên vùng đất này, nhường chỗ cho yếu tố Kinh, đầy sức
sống và đông đảo hơn. Nói một cách khác, sự dâng đất này là một hình thức công
nhận quyền sở hữu chính thức của nhà Lý trên một vùng đất đã thoát khỏi sự kiểm
soát của chính quyền trung ương Champa từ lâu. Sự dâng đất này còn ngụ ý là
Champa sẽ không mang quân sang quấy phá nữa, vì thần linh bảo vệ hoàng tộc và đất
đai không còn nữa. Đất ở ba châu này thật ra có phì nhiêu hơn ở vùng Thanh Hóa
(tức châu Điền), nhưng không phì nhiêu bằng đất ở Amavarati (Quảng Nam ).
Sự tranh chấp giữa Đại Việt và Chiêm Thành về sau trên phần lãnh thổ này vì tự
ái dân tộc nhiều hơn vì sự mầu mỡ của đất đai. Sau khi nhượng hẳn cho Đại Việt
ba châu phía Bắc, Rudravarman III mất uy tín trước các tiểu vương. Chiêm Thành
bị loạn sứ quân, không ai còn nghe ai nữa. Hơn mười tiểu vương tự tuyên bố độc
lập, kẻ mạnh mang quân đi đánh tiểu vương quốc yếu để mở rộng lãnh thổ hoặc gây
thanh thế. Các tiểu vương ở phía Nam, liên minh với đế quốc Angkor, biến
Panduranga thành trung tâm chống lại vương triều và các tiểu vương phía Bắc.
Năm 1074, buồn phiền trước cảnh đất nước loạn lạc và bị các tiểu vương phía Nam
xua đuổi, Rudravarman III (Chế Củ) dẫn gia đình sang Đại Việt xin tị nạn và tan
biến luôn trong xã hội người Kinh.
Triều vương thứ chín
(1074-1139) :
Tại Panduranga, một hoàng thân xuất thân từ Panduranga tên Thăn (còn gọi
là Yan Visnumurti, Madhavamurti hay Devatamurti, tiếng Việt là Thân), cùng em
là hoàng tử Pãn (tên Việt là Phan), đã lần lượt chinh phục các tiểu vương sứ
quân, thống nhất lại đất nước. Năm 1074, Thăn được quần thần tôn lên làm vua,
hiệu Harivarman IV, mở đầu triều vương thứ chín.
Thăn là tên một hoàng tộc thuộc bộ tộc Cau mà dân chúng Panduranga cho
là dòng vương tôn chân truyền của vương quốc Champa. Chính vì thế Harivarman IV
rất tự hào về nguồn gốc xuất thân của mình, vì luôn tự nhận là sự kết hợp của hai
bộ tộc lớn nhất của Champa : cha là Pralaysvara Dharmaraja, dòng Narikelavansa
thuộc đẳng cấp Ksatriya, bộ tộc Dừa ở Amaravati ; mẹ thuộc dòng Kramukavansa, đẳng
cấp Brahman, bộ tộc Cau ở Panduranga. Sở dĩ có sự giải thích dài dòng về nguồn
gốc xuất thân này - nhất là nguồn gốc xuất thân của mẹ, dòng Brahman chính thống
- vì Harivarman IV biết chắc rằng trong các sứ quân không ai hội đủ điều kiện về
nguồn gốc xuất thân để có thể được tôn lên làm vua trên toàn cõi Champa.
Việc làm đầu tiên của Harivarman IV là phục hồi lại các đền đài đã bị
tàn phá bởi quân Đại Việt và cuộc nội chiến. Không đầy một năm sau, Champa trở
nên hùng mạnh trở lại. Harivarman IV mang quân sang đánh Đại Việt, giành lại phần
lãnh thổ mà Rudravarman III nhượng trước đó.
Năm 1075, viện cớ phục hồi ngôi vua cho con cháu Rudravarman III (Chế Củ),
nhà Lý sai Lý Thường Kiệt mang quân chiếm lại ba châu vừa bị mất. Trước sự chống
trả mãnh liệt của quân Chiêm, Lý Thường Kiệt phải lui binh nhưng cho người vẽ lại
địa thế rồi đưa một số nông dân gan dạ (thật ra là những binh lính trá hình)
vào định cư. Hay tin quân Lý bị Champa đánh bại, vua Tống sai Vương An Thạch
mang 10.000 quân tiến qua biên giới tấn công Đại Việt. Lý Thường Kiệt lui về bảo
vệ lãnh thổ phía bắc. Ba châu vừa chiếm lại lọt vào tay Champa.
Năm 1076, vua Tống sai Quách Quì kết hợp với Champa và Angkor, mang
7.000 quân tiến công Đại Việt nhưng bị Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đánh bại. Thừa
thắng, Lý Thường Kiệt tiến xuống chiếm đóng đế đô Phật Thành, Harivarman IV phải
cùng con cái và một số thân tín chạy lên núi trốn ; tại đây phái đoàn được các
sắc dân Thượng che chỡ.
Quân Lý chỉ chịu rút khỏi Phật Thành khi Harivarman IV tuyên bố chấp nhận
triều cống nhà Lý trở lại. Hay tin này, hoàng thân Sri Nandanavarmadeva (người
Khmer) - mang quân vào miên Nam Champa theo lời mời của Quách Quì để chống lại
nhà Lý - chiếm luôn Panduranga. Vua Harivarman IV phải yêu cầu nhà Lý giúp đỡ.
Lúc này mặc dù đã tuổi già sức yếu, Lý Thường Kiệt vẫn phải thân chinh đi đánh
dẹp. Quân Khmer thua to bỏ chạy về nước, Harivarman IV truy đuổi và tiêu diệt hết
tại Somesvara (Biên Hòa ngày nay). Nhà vua sai em là hoàng tử Pãên (tiếng Việt
là Phan) chiếm thành Sambhupura (Sambor) trên sông Mékong, bắt được nhiều tù
binh cùng vàng bạc và của cải mang về nước.
Dẹp xong loạn phương Nam ,
Harivarman IV tập trung phục hồi đất nước. Mặc dù vẫn duy trì triều đình tại
Vijaya, nhà vua sửa sang lại các nơi thờ phượng khác trên toàn quốc và cho xây
dựng lại các thánh địa tôn giáo tại Indrapura (Đồng Dương) và Sinhapura (Mỹ Sơn).
Hoàng tử Pãn đích thân đôn đốc việc trùng tu các đền thờ tại Sinhapura (Mỹ
Sơn). Dưới triều vua Harivarman IV, Champa trù phú trở lại, đền đài cung điện
tìm lại những nét huy hòang tráng lệ ngày xưa.
Năm 1080, Harivarman IV nhường ngôi cho con là thái tử Văk Pulyan
Rajadvara, 9 tuổi. Tân vương lên ngôi năm 1081, hiệu Jaya Indravarman II (Chế
Ma Na). Chú là hoàng tử Pãn thế quyền giám quốc. Nhưng không biết vì nguyên do
nào mà cả triều thần và thái tử Văk đồng tôn Pãn lên làm vua, hiệu Sri
Paramabodhisatva (Si-bà Ra-ma Bồ-đề Sát-bà). Paramabodhisatva giao hảo tốt với
Đại Việt, mục đích chính của nhà vua là duy trì sự thống nhất của Champa, vì
lúc đó một tiểu vương Panduranga tên Rudravarman ly khai, không công nhận vương
quyền phương Bắc. Thật ra sự ly khai này đã xảy ra từ 16 năm trước, nhưng triều
đình Vijaya vì bận lo giải quyết những vấn đề khác cấp bách hơn nên chưa ra
tay. Tiểu vương Rudravarman bị đánh bại, Panduranga bị dưới quyền cai trị trực
tiếp của Phật Thành (Vijaya).
Năm 1086, nội bộ Champa xảy ra nội chiến. Thái tử Văk (Jaya Indravarman
II) được triều đình thúc đẩy muốn cầm quyền trở lại. Ước muốn này gặp sự phản đối
của vua Paramabodhisatva (hoàng tử Pãn) - người muốn đưa trưởng nam của mình là
hoàng tử Pulyan Sri Yavaraja lên ngôi - đã tìm mọi cách loại trừ thế lực thái tử
Văk nhưng không được.Cuối cùng Paramabodhisatva mất tích, phe của ông bị phe của thái tử Văk
giết hết. Jaya Indravarman II lên ngôi và tiếp tục triều cống Đại Việt. Năm
1092, Jaya Indravarman II nhờ nhà Tống giúp đòi lại vùng đất đã mất nhưng không
kết quả.
Năm 1103, một người Việt ở phủ Diên Châu (Nghệ An) tên Lý Giác nổi lên
làm phản. Lý Thường Kiệt vào đánh, Lý Giác thua chạy sang Phật Thành (Vijaya)
thuyết phục vua Jaya Indravarman II hưng binh chiếm lại vùng đất đã mất. Lý Thường
Kiệt một lần nữa phải thân chinh đi dẹp lọan, Jaya Indravarman II bị thua phải
trả lại ba châu đã chiếm và chịu triều cống trở lại năm 1104.
Nhà Lý liền phân chia lại các châu vừa lấy lại như sau : châu Bố Chánh gồm
huyện Nam Bố Chánh (Bố Trạch ngày nay) và huyện Bắc Bố Chánh (Quảng Trạch và
Tuyên Hóa ngày nay), châu Lâm Bình (Địa Lý cũ) gồm huyện Phong Lộc (Quảng Ninh
ngày nay) và huyện Phong Đăng (sau gọi là Phong Phú, tức huyện Lệ Thủy ngày
nay). Hai huyện Phong Lộc và Phong Phú là vựa lúa lớn nhất của đất Indrapura.
Châu Minh Linh (Ma Linh cũ) được chia thành hai huyện Vĩnh Linh và Gio Linh.
Năm 1113, cháu Jaya Indravarman II là Harivarman V lên ngôi, tân vương
giữ nguyên chính sách cai trị của chú, quan hệ giữa Champa và Đại Việt rất là
thân thiết. Harivarman V trị vì đến năm 1129 thì mất không người kế vị, Champa
lâm cảnh loạn lạc. Vương triều Panduranga không chịu sự cai trị của Vijaya,
liên kết với Chân Lạp đánh lại. Hai miền Nam Bắc đánh phá lẫn nhau trong suốt
10 năm (1129-1139).
Triều vương thứ mười
(1139-1145) :
Năm 1129 Harivarman V mất, hoàng triều Champa tôn người con nuôi của nhà
vua tên Po Sulika lên thay, hiệu Jaya Indravarman III. Vì không có quan hệ gia
tộc trực tiếp với dòng vua cũ, Jaya Indravarman III phải tự nhận có quan hệ xa
xôi với các triều vua trước để được dân chúng phục tùng. Theo các bia ký đọc được
tại Đồng Dương và Po Nagar, Jaya Indravarman III sinh năm 1106, được nhận vào
hoàng tộc năm 1129 tước Devaraja, được phong vương (Yuvaraja) năm 1133. Jaya
Indravarman III xây thêm nhiều tượng thần Siva, Visnu và Linga trong những năm
1139, 1142 và 1143 tại Indrapura và Kauthara để xác nhận ông là truyền nhân của
đẳng cấp Brahman.
Cùng thời gian này, năm 1112, tại Chân Lạp vua Suryavarman II lên ngôi.
Năm sau tân vương xua quân đánh chiếm Chiêm Thành. Tham vọng của nhà vua được
thời cuộc hỗ trợ vì bên Trung Hoa nhà Tống đang bận chống quân Kim (Mãn Châu) ;
vua Lý Thần Tông chết sớm, Lý Anh Tôn còn quá nhỏ, các tướng lãnh tranh quyền,
Đại Việt bị suy kém. Năm 1128, được Nam Chiêm Thành hỗ trợ, Suryavarman II dẫn
20.000 quân, đi trên 700 chiến thuyền, đổ bộ vào Thanh Hóa đánh phá và cũng là
một cách răn đe Đại Việt không nên hỗ trợ Bắc Chiêm Thành, bị Angkor
liên tục đánh phá từ 1030. Không chịu đựng nổi sự hà hiếp của người Khmer, đời
sống dân chúng Chăm rất là khổ sở. Dưới sự cai trị hà khắc của người Khmer, một
số vương tôn Chăm chạy vào Đại Việt xin tị nạn (Cụ Ông và 30 gia nhân, Kim Đình
A Phú và 4 gia nhân, Tư Bồ Đà La cùng 30 gia nhân, Êng Ma và Êng Câu…). Trong những
năm 1131 và 1136, quân Nam Chiêm Thành và Chân Lạp hợp nhau đánh phá Nghệ An và
bờ biển Thanh Hóa.
Năm 1132, viện cớ Jaya Indravarman III không chịu hợp tác tấn công Đại
Việt, Suryavarman II tiến quân lần nữa sang đất Champa: đế đô Vijaya bị chiếm năm
1145. Jaya Indravarman III mất tích trên chiến trường (được dân chúng thờ dưới
tên Rudraloka), những người chống lại quân Khmer đều bị xử trảm. Suryavarman II
tự xưng là hoàng đế của cả Chân Lạp lẫn Chiêm Thành. Kể từ 1145 đến 1149, lãnh
thổ đế quốc Khmer được nới rộng lên phía Bắc, từ Champassak (Nam Lào) đến đèo Hải
Vân (Bắc Champa), người Khmer trực tiếp điều khiển binh lực Chiêm Thành.
Triều vương thứ mười
một (1145-1318) :
Năm 1145 hoàng thân Parabrahman được triều thần đưa lên kế vị Jaya
Indravarman III, hiệu Rudravarman IV. Vừa lên ngôi, Rudravarman IV cùng con
trai là Ratnabhumivijaya (hoàng tử Sivanandana) bị quân Khmer truy lùng ráo riết
phải bỏ Vijaya chạy vào Đại Việt lánh nạn. Thời gian sau, Rudravarman IV băng rừng
về lại Panduranga lập chiến khu trên cao nguyên, nhiều bộ lạc Thượng gia nhập
quân kháng chiến rất đông. Trên đường chạy loạn, Rudravarman IV lâm bệnh mất
năm 1147 (dân chúng thờ dưới tên Brahmaloka hay Parabrahmaloka), con là thái tử
Ratnabhumivijaya lên thay, hiệu Jaya Harivarman I (Chế Bì Ri Bút).
Trên cao nguyên, Jaya Harivarman I được đông đảo người Thượng và người
Khmer (có thể là người Thượng thuộc hệ ngôn ngữ Môn Khmer) ủng hộ. Nhà vua tổ
chức kháng chiến chiếm lại Panduranga, nhưng lãnh thổ Bắc Champa (Vijaya) vẫn
còn nằm trong tay người Khmer, do em rể vua Jaya Indravarman III là hoàng tử
Hariveda (đẳng cấp Ksatriya) cai trị. Vương quốc Champa bị chia đôi.
Năm 1148, vua Khmer (Jaya Indravarman III) cử tể tướng Sankara cùng tướng
Sipakhya tấn công Panduranga, nhưng bị quân Champa đánh bại tại đồng bằng
Kayev, tỉnh Virapura (tiếng Khmer là Rajapura, tiếng Việt là Phan Rang). Thừa
thắng xông lên, năm 1149, Jaya Harivarman I dẫn đầu đoàn quân Champa, Thượng
chiếm thành Vijaya, giết Hariveda trên sông Yami (sông Hà Giao, Bình Định), thống
nhất lại đất nước. Kinh đô đặt tại Vijaya.
Do phân chia quyền lợi không đồng đều, người Rhadé, Bahnar và nhiều bộ lạc
Thượng khác tôn Vansaraja (Ưng Minh Diệp), anh rể Jaya Harivarman I, lãnh đạo
phong trào kháng chiến chống lại Jaya Harivarman I. Năm 1150, sau khi xưng
vương tại Madhyamagrama (ngày nay là An Khê, cạnh núi Yang Mung), Vansaraja dẫn
đại quân xuống đồng bằng tấn công người Chăm, nhưng bị đánh bại tại làng Slay.
Jaya Harivarman I tiến lên cao nguyên càn quét quân nổi loạn, Vansaraja phải chạy
vào Đại Việt xin nhà Lý giúp đỡ đưa về làm vua. Lý Anh Tôn sai thương chế Nguyễn
Mông mang 5.000 binh sĩ từ Thanh Hóa và Nghệ An vào đánh Champa. Chiến trận đã
diễn ra rất là khốc liệt tại Dalva (Đông Hà) và Lavan (La Vang), cả Nguyễn Mông
lẫn Vansaraja đều bị tử trận. Trong những năm sau (1151-1155), quân Champa thường
xuyên vào lãnh thổ Đại Việt (Nghệ An) cướp phá, vua Lý Anh Tôn định cất quân đi
chinh phạt nhưng Jaya Harivarman I chịu dâng nhiều phẩm vật quí giá nên thôi,
thực sự nhà Lý cũng e ngại sức mạnh quân sự của Champa.
Vì dồn hết mọi năng lực vào chiến tranh đánh dẹp nội loạn và ngoại xâm,
đời sống dân chúng Champa trở nên cơ cực, nhiều lãnh chúa địa phương nổi lên chống
lại triều đình trung ương. Năm 1151, Jaya Harivarman I phải hao tổn nhiều công
sức lắm mới khuất phục được những cuộc nổi loạn tại Amavarati. Vừa dẹp loạn
phương Bắc, Jaya Harivarman I lại phải đương đầu với những cuộc nổi loạn tại
Panduranga, do người Khmer đỡ đầu. Phải mất năm năm (1151-1155), nhà vua mới dẹp
xong được loạn và sau 1160 Champa tìm được lại sự hùng mạnh của quá khứ và giao
hảo tốt với các lân bang.
Năm 1162, Jaya Harivarman I băng hà truyền ngôi cho con là hoàng tử
Sakan Vijaya, hiệu Jaya Harivarman II. Năm 1167 Sakan Vijaya bị hoàng thân
Vatuv Gramapuravijaya soán ngôi, hiệu Jaya Indravarman IV.
Trong những năm 1164-1166, quân Champa thường xuyên tổ chức đánh cướp
các tàu buôn Ả Rập qua lại trên Biển Đông và tiến lên đánh phá các làng xã của
Đại Việt tại châu Lâm Bình và Minh Linh. Năm 1167, Lý Anh Tôn sai Tô Hiến Thành
mang quân đánh Champa. Jaya Indravarman IV vội cử người sang cống nạp, Tô Hiến
Thành lui quân về nước. Quà cáp thường là chiến lợi phẩm cướp từ các tàu buôn Ả
Rập. Chính vì những hành vi cướp bóc tàu thuyền này mà nhà Tống từ chối không
phong vương cho Jaya Indravarman IV, mặc dầu đã cử nhiều phái đoàn sang Trung
Hoa triều cống.
Jaya Indravarman IV (1151-1205), còn gọi là Po Klong Girai, Po Klong
Garai hay Po Klău Girai, là người có công xây đập Chaklin (Nha Trinh) và hai
mương dẫn nước (mương Cái và mương Đực) tại Phan Rang để canh tác nông nghiệp.
Theo truyền thuyết, Po Klong Garai - còn gọi là Vua Lác, con của nữ thần Po Sah
Ino - lúc mới sinh ra đã mắc bệnh cùi, may nhờ có rắn naga liếm nên lành bệnh.
Tuy mang bệnh cùi từ lúc còn trẻ nhưng nhà vua đã tỏ ra đắc lực trong việc chiến
chinh. Khi băng hà, nhà vua dân được chúng thờ trong tháp Po Klong Garai (tháp
Chàm Phan Rang, phường Lưu Vinh, thị xã Tháp Chàm).
Jaya Indravarman IV quyết chí phục thù đế quốc Angkor
về việc xâm chiếm và đô hộ Champa. Quân lực Champa dưới thời Jaya Indravarman
IV rất giỏi về tượng binh và thủy chiến. Năm 1170, sau khi điều đình với Đại Việt
giữ thế trung lập (bằng phẩm vật triều cống), Jaya Indravarman IV mang đoàn tượng
binh tấn công Chân Lạp, lúc đó do vua Dharanindravarman II cai trị. Cuộc chiến
kéo dài một năm, bất phân thắng bại (quân Khmer cũng dùng tượng binh đối chọi),
sau cùng quân Champa phải rút về nước vì hết lương thực.
Năm 1171, một quan nhân gốc Hoa (không rõ tên) - quê ở Ki Yang Kiun, Quí
Châu, thuộc đảo Hải Nàm, bị chìm tàu trôi giạt vào bờ biển Champa - được dân
chúng dẫn đến trình diện Jaya Indravarman IV. Người này chỉ cho vua Champa cách
cưỡi ngựa xung trận thay vì dùng voi như trước, điều này làm nhà vua rất thích
thú vì hiệu quả thần tốc và gọn nhẹ của nó. Sau khi nắm vững được thuật cỡi ngựa,
Jaya Indravarman IV cử một đoàn người sang Cửu Châu, đảo Hải Nàm, mua hết ngựa
chiến nhưng bị vua Tống không cho bán (vì những hành vi hải tặc trước đó). Đoàn
thương buôn Chăm nổi giận bắt người, đốt những trại nuôi ngựa không chịu bán.
Dân Hải Nàm quá lo sợ phải bán cho họ một số ngựa mới được yên, nhưng không đủ
để thành lập một đội kỵ binh. Năm 1172, Jaya Indravarman IV cử một đoàn người
khác sang Trung Hoa triều cống, trả về những thường dân bị bắt và yêu cầu xin
được mua ngựa, vua Tống vẫn từ chối.
Không mua được ngựa, Jaya Indravarman IV tấn công Chân Lạp bằng đường thủy
(năm 1176). Nhà vua cho đóng thêm nhiều tàu chiến, tập dượt thủy binh. Năm
1177, Jaya Indravarman IV đi thuyền từ cửa sông Cửu Long vào chiếm Vrah Nagar
(Prah Nokor, ngày nay là Sài Gòn). Quân Chiêm tịch thu nhiều chiến lợi phẩm và
bắt theo nhiều tù binh Khmer về nước. Những tù binh này lúc đầu có bị bạc đãi,
nhưng về sau được đối xử tử tế để trở thành dân Champa và hội nhập hoàn toàn
vào xã hội dân Champa.
Trong số tù binh này có một vương tôn Khmer, sau này là Jayavarman VII.
Lúc còn ở Champa, Jayavarman VII học được cách tổ chức xã hội, cách huấn luyện
binh sĩ thủy bộ và còn kết thân được với nhiều hoàng thân của xứ này. Ông được
thả về nước năm 1186 để kế nghiệp anh là vua Yasovarman II, bị soán ngôi.
Về lại Chân Lạp, Jayavarman VII kết nghĩa với một vương tôn Champa tên
Sri Vidyanandana, quê ở Tumpraukvijaya (một làng ở Bình Định), đến Chân Lạp lập
nghiệp từ 1182. Sau khi dẹp được loạn ở Malyan (hay Mou Leang, một làng ở vùng
phía Đông Chân Lạp), hoàng thân Sri Vidyanandana được Jayavarman VII phong một
tước hoàng tộc Khmer là Yuvaraja. Năm 1190, Jayavarman VII sai Vidyanandana đi
đánh Champa, ông chiếm được Vijaya, bắt sống Jaya Indravarman IV mang về Chân Lạp.
Hoàng tử In (anh em cột chèo với Jayavarman VII) được phong làm tiểu vương xứ
Nagara Vijaya (Bắc Champa), hiệu Surya Jayavarman (hay Surya Jayavarmadeva),
hoàng thân Vidyanandana được phong làm tiểu vương xứ Rajapura (Nam Champa), hiệu
Suryavarman (còn gọi là Suryavarmadeva hay Bố Trì), cả hai đều đạt dưới sự lãnh
đạo của Jayavarman VII. Vương quốc Champa trở thành một thuộc địa của Chân Lạp.
Panduranga và Vijaya là hai tỉnh của đế quốc Angkor .
Người Thượng trên Tây Nguyên không công nhận vương quyền mới này đã cùng một số
vương tôn Champa khác tổ chức đánh phá Amavarati, Vijaya và Panduranga.
Năm 1191 tại Vijaya, Surya Jayavarman (hoàng tử In) bị Rasupati, một
hoàng thân Champa, đánh bại phải chạy về lại Chân Lạp. Rasupati tự xưng là vua
xứ Vijaya, hiệu Jaya Indravarman V. Không nhìn nhận vương quyền mới này,
Jayavarman VII cho Jaya Indravarman IV (cựu vương Champa và cũng là thân phụ của
hoàng tử In) về Bắc Champa chiếm lại ngôi báu. Jaya Indravarman IV được Suryavarman
(hoàng thân Sri Vidyananda) tiếp sức mới chiếm được Vijaya, Rasupati (Jaya
Indravarman V) bị xử trảm. Thay vì giao thành lại cho vua Champa cũ,
Suryavarman chiếm luôn Vijaya ; Jaya Indravarman IV liền kêu gọi dân chúng tại
Amavarati và các làng Ulik, Vyar, Jriy, Traik chống lại. Năm 1192, Jaya
Indravarman IV bị tử trận tại Traik. Suryavarman thống nhất lại đất nước, lên
ngôi vua và tìm cách tách khỏi ảnh hưởng của đế quốc Angkor .
Hay tin hoàng thân Suryavarman làm phản, Jayavarman VII cử đại quân, trong
số này có cả người Thượng (do tướng Jai Ramya cầm đầu), sang đánh Champa. Cuộc
chiến kéo dài từ 1193 đến 1194, đại quân Khmer bị đánh bại. Thay vì theo quân
Khmer về nước, một người Djarai tên Sri Agara chiếm một vùng đất lớn từ
Amavarati đến Pidhyan (Phú Giang, bắc Phú Yên) rồi tự xưng vương năm 1193, hiệu
Patau Ajna Po Ku.
Tuy đẩy lui được quân Khmer, Suryavarman vẫn lo sợ. Năm 1194, ông dời cư
lên Amaravati (Quảng Nam) tránh nạn và giao hảo tốt với Đại Việt năm 1198, bằng
cách triều cống hằng năm, và được vua Lý Cao Tông (Long Cán) phong vương năm
1199. Đất nước được thái bình trong vài năm thì Suryavarman bị chú là Yuvaraja
on Dhanapati Grama (Bố Do) soán ngôi năm 1203. Dhanapati Grama đưa quân Khmer
vào chiếm Amaravati, Suryavarman dẫn một hải đội hơn 200 chiến thuyền chạy vào
cửa Cửu La (Nghệ An) xin tị nạn.Tại đây, vị hoàng thân Champa (người Việt gọi
là Bố Trì) bị Dĩ Mông và Phạm Giêng, hai quan trấn thủ Nghệ An.nghi ngờ Suryavarman
rất buồn lòng, dùng mưu đốt thuyền của Phạm Giêng và giăng buồm ra khơi mất
tích.
Dhanapati được lệnh vua Khmer đánh dẹp các cuộc nổi loạn tại Champa, đặc
biệt là trên cao nguyên. Patau Ajna Po Ku bị bắt sống đem về Chân Lạp trị tội.
Dhanapati được phong toàn quyền cai trị xứ Champa. Champa trở thành một tỉnh của
đế quốc Angkor lần thứ hai. Dhanapati được con
trưởng của Jaya Harivarman II (1162-1167), sinh sống tại Chân Lạp, tên Ansaraja
Turaivijaya phụ lực cai trị Champa. Turaivijaya cai quản đất Amavarati, tổ chức
nhiều cuộc tấn công vào lãnh thổ Đại Việt (Nghệ An) trong những năm 1207, 1216
và 1218 ; tất cả đều bị quan trấn thủ Nghệ An Lý Bất Nhiêm đẩy lui. Champa bị đế
quốc Angkor tái đô hộ trong suốt 17 năm
(1203-1220). Năm 1220 bị quân Xiêm La làm áp lực tại chính quốc, quân Khmer rút
khỏi Champa. Trong gần 100 năm chống chọi và bị Angkor
đô hộ, Champa bị kiệt quệ.
Quân Chân Lạp vừa rút khỏi Champa, hoàng tử Ansaraja Turaivijaya (tên
Khmer là Sri Ajirang) được hoàng tộc Champa tôn lên làm vua, hiệu Jaya
Paramesvaravarman II, đóng đô tại Viyaja. Vừa lên ngôi, tân vương cho xây lại
những tượng đài bị đập phá tại tháp Sri Sanabhadresvara (Mỹ Sơn) và Po Nagar
(Nha Trang), xây thêm các đập nước, mở rộng diện tích dinh điền, đất nước phồn
thịnh trở lại ; nhiều bộ lạc Thượng trên Tây Nguyên về thần phục. Năm 1230,
hoàng tử Abhimanyuvarman, một vương tôn tỉnh Pankaja người Cathei, được Jaya
Paramesvaravarman II cử làm thống lãnh đất Panduranga. Những tiểu vương kế nghiệp
ông được biết đến sau này tại Panduranga là Po Unvavah, Po Binasur, Po Putrik
v.v... (Tên những vương tôn Champa tại miền Nam Champa, hay tại Panduranga sau
này, đều kèm theo chữ Po (Pô, Pu, Pou hay
Poh), có nghĩa là Ông, Ngài hay Vua). Năm 1244, vua Champa tổ chức nhiều đợt tấn
công vào duyên hải Nghệ An và Thanh Hóa, chiếm đóng Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh.
Tại Đại Việt, sau khi ổn định triều chính, năm 1252 Trần Thái Tôn dẫn đại
quân đi đánh Champa. Cuộc tiến công kéo dài gần một năm, thành Vijaya thắt thủ,
vương phi Bố Gia La cùng nhiều cung phi, tù binh và quan chức triều đình Champa
bị bắt mang về Đại Việt. Jaya Paramesvaravarman II bị tử trận năm 1254, em là
hoàng tử Sakan Vijaya lên thay, hiệu Jaya Indravarman VI. Jaya Indravarman VI
duy trì giao hảo với Đại Việt, triều cống đều đặn. Năm 1257, nhà Trần rút quân
về nước, lúc đó đang bị quân Nguyên (Mông Cổ) đe dọa.
Năm 1257, Jaya Indravarman VI bị ám sát, hoàng tử Pulyan Sri Yuvaraja,
con người chị (công chúa Suryadevi) lên thay, hiệu Jaya Sinhavarman VI. Năm
1266, hoàng tử Chay Nuk, con Jaya Paramesvaravarman II, lên kế vị, hiệu
Indravarman V. Indravarman V tiếp tục giao hảo tốt với Đại Việt. Năm 1278,
Indravarman V sai hai sứ giả (Bồ Tinh và Bồ Đột) sang Đại Việt xin bảo hộ và
thành lập một liên minh chống lại quân Mông Cổ.
Hay tin này, năm 1281, vua Nguyên (Hốt Tất Liệt) cử hữu thống chế Toa Đô
(Sogatu) và tả thống chế Lưu Thâm cùng tham chính A Lý và Ô Mã Nhi mang 10 vạn
thủy binh từ Quảng Châu sang Chiêm Thành buộc Indravarman V phải đích thân về
Trung Nguyên triều cống. Không chống nổi quân Mông Cổ, Indravarman V chịu đặt
Champa dưới sự bảo hộ của nhà Nguyên năm 1282. Toa Đô được nhà Nguyên phong làm
thống đốc toàn quyền cai trị xứ Champa, tiểu vương Champa nào chịu theo quân
Nguyên đều được phong làm phó vương. ]
Hoàng tử Harijit Po Devada Svor (hay Po Depitathor), con Indravarman V,
cùng mẹ là hoàng hậu Gaurendraksmi, không chấp nhận sự đô hộ của Mông Cổ rút
vào rừng, tổ chức kháng chiến. Harijit mộ được khoảng 20.000 người, gồm đủ mọi
các sắc tộc Thượng sinh sống trên cao nguyên Ya Heou, phía tây bắc Champa, tấn
công quân Nguyên trên khắp lãnh thổ Bắc Champa. Năm 1283, Toa Đô dẫn đầu một
đoàn quân gồm 5.000 người, 100 tàu và 250 thuyền đi dọc theo bờ biển và các con
sông lớn đổ bộ lên Tây Nguyên nhưng bị đánh bại. Quân Mông Cổ - một phần bị bệnh
tật, không chịu đựng nổi khí hậu nóng nực của miền nhiệt đới, một phần vì đói
kém, thiếu tiếp liệu từ lục địa - phải rút về trấn giữ đồng bằng.
Tháng 4-1285, Toa Đô cùng Ô Mã Nhi mang hải đội từ Champa, trong đó có đội
thủy binh người Chăm, tiến lên ra Bắc hợp với Thoát Hoan vây thành Thăng Long,
kinh đô của Đại Việt. Quân của Thoát Hoan bị quân Trần đánh bại phải rút về nội
địa, quân của Toa Đô bị đánh tan tại Nghệ An. Toa Đô bị chết tại trận, quân Trần
bắt được rất nhiều tù binh Mông Cổ và Chăm, trong đó có hai tướng Chăm tên Lậu
Khê và Na Liên, bị trả về cho vua Champa xử tội. Những binh lính Chăm khác theo
Mông Cổ, không dám về lại quê cũ, theo quân Nguyên về Hoa lục và được cho định
cư trên đảo Hải Nàm, bờ biển nam Quảng Châu, nơi đã có nhiều người Chăm khác đến
lập nghiệp từ năm 992 dưới thời Lưu Kỳ Tông. Những binh lính Chăm này, đa số
theo đạo Hồi, đã lập gia đình với người địa phương và ở lại lập nghiệp. Đây là
đợt di dân thứ hai của người Champa ra hải ngoại.
Năm 1288 Indravarman V mất, hoàng tử Harijit lên
ngôi, hiệu Jaya Sinhavarman III (Chế Mân), đặt kinh đô tại Vijaya. Mặc dù không
triều cống nhà Trần, bang giao giữa Đại Việt và Champa rất là thắm thiết. Chỉ một
thời gian ngắn sau Champa hùng mạnh trở lại, các vương quốc lân bang, trong có
Đại Việt cử người sang thông hiếu đều đặn. Nhiều đền đài được xây cất cả tại đồng
bằng lẫn trên cao nguyên. Chế Mân cho xây một tháp trên đồi Chok Hala, gọi là đồi
Trầu, để dân chúng đến tế lễ, sau này là tháp Po Klong Garai (Tháp Chàm Phan
Rang).
Năm 1292 và 1293, trên đường tiến đánh Java (Indonesia) và Madjapahit
(Mã Lai) quân Mông Cổ xin vào bờ mua tiếp liệu nhưng bị Chế Mân từ chối, phải
giương buồm đi tiếp. Cũng nên biết Chế Mân có rất nhiều quan hệ tình cảm với
các tiểu vương Năm 1301, cựu hoàng Đại Việt là Trần Nhân Tôn, sau khi nhường ngôi cho con là Trần Anh Tôn, đi thăm các nước láng giềng. Khi thăm Champa, Trần Nhân Tôn được Chế Mân tiếp đãi nồng hậu và đã ở lại đây 9 tháng. Để tạ ơn, khi ra về cựu vương hứa gả công chúa Huyền Trân (em gái Trần Anh Tôn) cho Chế Mân. Cuối năm 1301, Chế Mân sai Chế Bồ Đày mang lễ vật sang cưới Huyền Trân. Triều đình nhà Trần có nhiều người không thuận, cuộc thương thảo kéo dài từ 1302 đến 1305 ; sau cùng, mùa hè năm 1306, Chế Mân thuận tặng cho nhà Trần hai châu Ô và châu Rí (châu Lý), phía bắc đèo Hải Vân, để làm quà cưới, nhà Trần mới chịu và sai Đoàn Nhữ Hài đưa Huyền Trân về Champa. Tại đây, Huyền Trân được Chế Mân đặt tên là hoàng hậu Paramesvari.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét