phần 12
Trước
làn sóng di dân người Việt
Ngoài chủ nghĩa “Thiên Tử” và bối cảnh lịch sử của các cuộc nội chiến ở Việt
Nam mà chúng tôi vừa trình bày, Champa còn là nạn nhân của làn sóng di dân Việt
sang phía nam kể từ thế kỷ thứ 10. Họ là những tội phạm, những kẻ phiêu lưu, những
nông dân không đất đai để sinh sống, không công ăn việc làm, tìm cách thoát
thân đi tìm tự do và cuộc sống mới ở vương quốc Champa, nơi vẫn còn nhiều khu vực
phì nhiêu chưa có ai khai khẩn.
Phong trào di dân này càng ngày càng mở rộng kể từ kỷ thứ 13, thời kỳ mà địa
bàn dân cư sông Hồng càng ngày càng tăng gấp bội để rồi dân chúng không còn đất
đai để canh tác. Ðể giải quyết nạn thiếu đất, dân Việt chỉ còn cách tìm đường
tràn xuống phía nam, tức là Champa. Phong trào di dân này càng dấy lên kể từ thế
kỷ thứ 17, thời kỳ mà dân Việt đang lâm vào nạn đói rách vì hạn hán hay mưa lũ,
đương đầu với chiến tranh Nam-Bắc và tình hình thiếu an ninh vì nạn cướp bóc. Lợi
dụng cơ hội này, chúa Nguyễn hô hào dân Việt xung phong vào đội ngũ để khai khẩn
đất hoang ở khu vực biên giới phía nam của mình. Họ là nhóm “Ðồn Ðiền”, tức là
đội ngũ vừa làm dân, vừa làm chiến sĩ để phòng thủ đất đai chống lại sự quấy
nhiễu Champa ở biên giới. Chúa Nguyễn còn khuyến khích thêm dân Việt nên vượt
biên giới tràn sang Champa và Cao Miên. Ban đầu, họ họ chỉ khai thác những khu
đất hoang hay cấm kị (tabung) mà dân bản xứ Champa không canh tác. Sau đó, họ bắt
đầu khai thác những khu vực phì nhiêu hơn do dân bản xứ bán nhượng lại cho họ.
Trong những thời gian đầu, tất cả dân cư Việt phải khép mình vào khuôn khổ luật
pháp của Champa, có nghĩa là vua chúa của vương quốc này có quyền tuyệt đối, cả
quyền sống chết đối với họ. Nhưng sau thế kỷ thứ 17, tình hình dân cư Việt ở
Champa đang bước vào một khúc quanh mới. Lợi dụng sự hiện diện của họ trên lãnh
thổ Champa, chúa Nguyễn bắt đầu nhúng tay vào nội bộ của vương quốc này với
danh nghĩa là nhà nước Việt Nam có nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi cư dân Việt sinh sống
ở nước ngoài. Sau đó, nhà Nguyễn tìm cách động viên họ để phục vụ cho mục tiêu
chiến tranh chống Champa trong tương lai. Ðiển hình nhất là cuộc xâm lăng nhà
Nguyễn nhằm xóa bỏ Champa trên bản đồ đầu tiên vào năm 1692 có sự tham gia đông
đúc cư dân Việt sinh sống lâu đời ở vương quốc này.
Vì sức ép của sự vùng dậy nhân dân Champa vào năm 1693, nhà Nguyễn chấp nhận
trao trả lại vương hiệu Champa vào năm 1694 với điều kiện là vua chúa Champa phải
chấp nhận cho nhà Nguyễn thành lập phủ Bình Thuận đầu tiên trong biến giới
Champa nhằm quản lý các cư dân Việt sinh sống ở vương quốc này. Kể từ đó, cư
dân Việt này không còn là công dân của Champa nữa, mà là dân Việt của triều
Nguyễn.
Phủ Bình Thuận không có biên giới nhất định mà chúng tôi gọi đó là “biên giới
da beo”, tập trung tất cá các thôn xóm dân tộc Việt nằm rải rác trên lãnh thổ
Champa. Ðây là một địa bàn cư dân rất là phức tạp đối với nhà nước Champa thời
đó. Và địa bàn cư dân này đã trở thành một công cụ hữu hiệu nhằm giúp nhà Nguyễn
thôn tính Champa bất cứ lác nào mà họ cần.
Bên lề qui chế hành chánh đặc biệt này, sự hiện diện của cư dân Việt còn có một
hậu quả khác đó là vai trò của họ trong guồng máy kinh tế ở Champa thời đó. Vì
quá nghèo túng, dân bản xứ Champa thường hay vay mượn tiền bạc của cư dân Việt
với chỉ số tiền lời định giá hơn 150% năm. Một khi dân bản xứ Champa không thể
trả nổi nợ nằn, người Việt siết đất đai và gia tài của họ như đã ghi trong hợp
đồng. Chính sách vay mượn này đã đưa dân bản xứ Champa đi vào con đường nghèo
túng đến lúc họ phải bán chồng con của họ cho người Việt để thanh toán vấn đề
vay mượn.
Ngoài vấn đề khủng hoảng kinh tế, sự hiện diện của cư dân Việt đã đưa cơ cấu tổ
chức thôn xóm và xã hội của người Champa vào một khúc quanh mới và khuyếch đại
thêm sự xung đột giữa cư dân Việt và dân Champa bản xứ.
Dựa trên quyền uy của nhà Nguyễn, dân cư Việt bắt đầu cư xử như một dân tộc chiến
thắng. Họ sẳn sằng tiếp tay với triều đình Huế bắt cứ lúc nào mà nhà Nguyễn cần
đến họ. Ðối với nhà Nguyễn, chiến lược nhằm tiêu diệt Champa có hiệu quả nhất
không phải là giải pháp quân sự mà là giải pháp chính trị, có nghĩa là nhà Nguyễn
động viên cư dân Việt ở phủ Bình Thuận phát huy chương trình khai khẩn đất
hoang để làm chủ đất đai, độc quyền trong bộ máy thương mại, kiểm soát hoàn
toàn mạch máu kinh tế ở vương quốc này.
Vừa đối phó với dân cư thưa thớt, đất đai nhỏ hẹp, quân sự suy yếu, vương quốc
Champa không còn đủ khả năng để bảo tồn tư thế độc lập của mình nữa một khi
kinh tế của vương quốc này hoàn toàn bị bao vây bởi cư dân Việt ở phủ Bình Thuận.
Ðó cũng là điểm đáng chú ý trong tiến trình lịch sử của sự bại vong Champa vào
năm 1832.
Chính sách bế môn tỏa cảng
Trước năm 1471, Champa là hải cảng quan trọng trên đường hàng hải nối liền biển
Nam Hải và Ấn Ðộ Dương, cũng là nơi tập trung nhiều tàu bè của các thương thuyền
quốc tế.
Sau năm 1471, vương quốc này chỉ là một địa thế phụ thuộc trong hệ thống giao
thương hàng hải. Sau ngày thất thủ Phú Yên (Harek Kah Harek Dhei) vào năm 1611,
và Nha Trang (Aia Trang) vào năm 1653, chúa Nguyễn đã kiểm soát hoàn toàn khu vực
hải cảng Champa ở miền nam mà chúng tôi gọi là mạch máu kinh tế và chính trị của
vương quốc này.
Một khi đã xâm chiếm Phú Yên và Nha Trang, các tàu bè quốc tế không còn ghé bến
Champa nữa. Ðó cũng là yết tố quan trọng để giải thích rằng tại sao Champa hoàn
toàn bị cô lập không còn đường dây liên lạc với các nước láng giềng kể từ thế kỷ
thứ 17.
Một khi bị trục xuất ra khỏi trục giao thông hàng hải quốc tế, Champa đã trở
thành một quốc gia hoàn toàn nằm trong gọng kềm của dân tộc Việt. Thế là định mệnh
sống còn của Champa không còn nằm trong tay của tập thể lãnh đạo của vương quốc
này nữa mà là tùy thuộc vào lòng ưu ái của nhà Nguyễn đối với vương quốc này.
Chính sách mỹ nhân kế
Sống trong một chế độ phong kiến, quốc trưởng Champa, cũng như quốc vương ở các
nước Ðông Phương, thường kết hôn với công chúa gốc người nước ngoài. Ðối với
Champa, sự hiện diện của công chúa nước ngoài trong cung đình không mang ý
nghĩa như một món quà đổi chát mà là một sự liên kết tình thân hữu giữa hai quốc
gia. Sự kết hôn giữa công chúa của nước Ða Ðảo (Jawa) và vua Champa là Jaya
Sinhavarman III (Chế Mân, -1307) thường biểu dương cho chính sách bang giao
thân hữu giữa hai quốc gia hơn là một cuộc tình trong nghĩa rộng của nó.
Nói đến cuộc kết hôn giữa quốc vương Champa và công chúa xuất thân từ nước
ngoài, thì người ta phải nói đến cuộc tình giữa vua Chế Mân và Huyền Trân Công
Chúa. Năm 1301, nhân dịp viếng thăm Champa, thượng hoàng Trần Nhơn Tôn hứa gả
công chúa Huyền Trân cho Chế Mân để đổi lấy hai châu 0 và Lý (khu vực tỉnh Thừa
Thiên). Năm 1306, Huyền Trân Công Chúa sang Champa. Một năm sau, tức là 1307,
Chế Mân từ trần mà tư liệu lịch sử không nói rõ nguyên nhân. Viện cớ là phải đến
bãi bể để cầu nguyện trước khi lên dàn hỏa với Chế Mân theo phong tục của
Champa, Trần Khắc Chung chờ sẳn gần bờ biển để đưa Huyền Trần chạy trốn về Ðại
Việt. Sự hiện diện của Trần Khắc Chung tại bãi bể và thái độ
chạy trốn của Huyền Trân Công Chúa trong lúc người chồng của mình vừa từ trần
đã đưa các nhà khoa học đặt ra bao nghi vấn : có chăng sự từ trần của Chế Mân
không phải là vấn đề tuổi thọ quá cao mà là có sự nhúng tay của Ðại Việt trong
biến cố này mà Huyền Trân Công Chúa chỉ là người nhận lệnh để thực hành dự án
ám hại vua Chế Mân. Nếu không, Huyền Trân Công Chúa có tội gì mà phải chạy trốn?
Vì nhan sắc của một cô gái Việt, vương quốc Champa phải nhượng cho Ðại Việt hai
châu O và Lý (khu vực Huế-Thừa Thiên) thì đúng là món quà quá đắt.Sau cuộc tình
Chế Mân, Champa còn là nhạn nhân của một cặp vợ chồng khác đó là cuộc kết hôn
giữa vua Champa là Po Romé (1627-1651) và Ngọc Khoa, công chúa của nhà Nguyễn
mà sử liệu tiếng Chăm gọi là Bia Ut (công chúa miền bắc).
Sự hiện diện của Bia Ut trong triều đình Champa thời đó có một
vai trò khác hẳn với Huyền Trân Công Chúa. Theo truyền thuyết của Champa, Bia
Ut đến vương quốc này với một sứ mạng mà nhà Nguyễn đã giao phó, đó là làm thế
nào để Po Romé chặt bỏ cây Kraik, biểu tượng cho thần quyền trấn giữ vương quốc
này. Nhưng sự thật, Bia Ut đến Champa chỉ làm nhà trinh thám nhằm
báo cáo cho nhà Nguyễn biết mọi chi tiết liên quan đến tổ chức chính trị và
quân sự của quốc gia này. Sau khi nhận đủ tin tức, nhà Nguyễn xuất quân tấn
công Po Romé. Trong cuộc chiến này, Po Romé bị quân nhà Nguyễn vây bắt đem nhốt
trong rọ sắt để khiêng về Thuận Hóa với sự chứng kiến của một số nhà truyền đạo
Tây Phương ở Champa. Sau biến cố này, triều đình Champa kết tội tử hình Bia Ut
và tạc tượng bà ta với cái đầu nhủi xuống đất để hậu thế không quên lịch sử của
công chúa người Việt đóng vai mỹ nhân kế này.
Ba năm sau ngày thất trận của Po Romé, tức là năm 1653, quân nhà Nguyễn xua
quân xâm chiếm Nha Trang và dời biên giới miền nam của mình đến Cam Ranh. Thế
là vương quốc Champa chỉ còn vỏn vẹn trong khu vực Phan Rang và Phan Rí.
Hai chủ thuyết chiến tranh đối ngược
Ðại Việt và Champa là hai nước láng giềng có hai chủ thuyết chiến tranh hoàn
toàn đối ngược nhau. Là một vương quốc hấp thụ nền văn minh Ấn Ðộ Giáo, chiến
tranh của Champa chống nước làng giềng là chiến tranh chinh phạt để làm suy yếu
đi sức mạnh quân sự và chính trị của phe địch, chứ không phải là chiến tranh
chiếm đất đai. Chủ thuyết này đã biểu lộ rõ rệt trong thời Chế Bồng Nga. Hàng
năm, Chế Bồng Nga xuất quân ra miền bắc đốt phá thành Thăng Long sau đó rồi kéo
quân trở về, nhưng Chế Bồng Nga không bao giờ nghĩ đến chính sách chiếm đất đai
Ðại Việt để xát nhập vào lãnh thổ của mình. Nếu Champa áp dụng chủ thuyết chiến
tranh nhằm chiếm đất đai thì vương quốc Ðại Việt đã bị xóa hẳn trên bản đồ vào
cuối thế kỷ thứ 14 rồi.
Ngoài ý niệm chinh phạt, chiến tranh của Champa chống nước làng giềng thường
mang một yếu tố tín ngưỡng rõ rệt, đó là tàn phá những gì có liên hệ đến uy quyền
thần linh của quốc gia phe địch. Nếu Champa đốt phá thủ đô Thăng Long, vì đây
là trung tâm chính trị của Ðại Việt; dập tan các nơi thờ phượng thần linh, vì
đó là các thần giữ nước non của Ðại Việt, v.v. Ðối với Champa, đập tan thần
linh phe địch tức là biểu tượng cho sức mạnh thần linh của mình. Chính vì thế,
sau ngày thắng trận, vua chúa Champa thường hay xây đền dựng tháp, dâng lễ vật
cho thần linh để bày tỏ sự tri ân của mình.
Ngoài màu sắc tín ngưỡng này, Champa còn có một qui luật riêng liên quan đến
chiến tranh, đó là không bao giờ dùng chiến lược “dương đông kích tây” hay nói
một cách khác tìm cách đánh lén lút sau lưng địch. Mỗi lần xuất quân, Champa phải
hẹn hò trước với phe địch về ngày tháng nhất định và nơi chốn của bãi chiến trường.
Vì quá trọng nhân cách “Quân Tử” trong trận chiến, Champa thường hay vấp phải
những thất bại nặng nề.
Ðối với Ðại Việt, ý niệm về chiến tranh hoàn toàn đối ngược. Chiến tranh là trận
chiến quân sự không có mục tiêu chinh phạt phe địch theo nghĩa rộng của nó, mà
là để chiếm đoạt tài sản và đất đai của phe địch để sáp nhập vào lãnh thổ của
mình.
Nói đến chiến tranh, Ðại Việt thường hay áp dụng mọi chiến lược, mọi tính toán
và mưu mô như “dương đông kích tây” v.v. nhằm che mắt hay lừa phe địch trong những
cú đánh bất ngờ hòng dễ dàng phá tan phe địch cho bằng được. Chính vì thế, chiến
tranh của Ðại Việt luôn luôn mang màu sắc đế quốc, tức là dùng sức mạnh quân sự
để mở rộng bờ cỏi đất nước của mình.
Một khi đã chiếm đất đai, Ðại Việt áp dụng chính sách đồng hóa ngay dân bản xứ
để họ trở thành người Việt thật sự có cùng văn hóa Việt. Chỉ cần vài thế kỷ,
chính quyền Ðại Việt đã lột bỏ hoàn toàn tâm linh và tiếng nói của dân tộc
Champa sống trên giải đất bị chiếm đóng từ Quảng Bình đến Cam Ranh, không phải
bằng bạo lực mà là bằng cách đồng hóa họ để rồi họ không còn nhận diện đâu là
nguồn gốc lịch sử của họ nữa. Hôm nay, không có một người Champa nào sống ở miền
trung Việt Nam
còn biết nói tiếng Chăm là một bằng chứng cụ thể.
Ðối với Ðại Việt, chiến tranh không phải công cụ để đốt phá nơi thờ phượng thần
thánh có uy quyền của phe địch, mà là tàn phá những gì thuộc về phe địch dù đó
là trung tâm chính trị (tức là thủ đô), dù đó đền đài hay người dân vô tội đi nữa.
Nói tóm lại, chủ thuyết chiến tranh của Ðại Việt đã đóng góp phần nào rất là
tích cực trong tiến trình của sự suy tàn Champa kể từ thế kỷ thứ 10 đến năm
1832.
Ý niệm về biên giới: “một tất đất, một tất vàng”
Nói đến ý thức hệ về biên giới, Champa và Ðại Việt cũng là hai nước láng giềng
có ý niệm hoàn toàn khác biệt.
Ðối với Champa, biên giới là nơi giới hạn lãnh thổ của mình đặt dưới quyền bảo
hộ của thần linh. Biên giới Champa là biên giới tín ngưỡng, luôn luôn cố định
không thể xê dịch và không ai có quyền vượt biên giới này mà không có sự đồng ý
của thần linh. Nếu Chế Bồng Nga không nuốt trọn đất đai của Ðại Việt một khi đã
đánh bại phe địch, vì rằng quốc vương này không giám nới rộng biên giới Champa
ra miền bắc, vì sợ thần linh Champa không cho phép.
Ý niệm biên giới cố định mang bản chất thần quyền này còn thể diện qua các dấu ấn
rõ rệt ở Champa. Mặc dù cùng sống chung trong quốc gia Champa, người Chăm ở đồng
bằng, dù là đất đai rất là chật hẹp, họ không bao giờ giám vượt biên giới của
khu vực mình để tràn lên cao nguyên sinh sống. Biên giới tín ngưỡng này cũng
còn biểu lộ một cách rõ rệt trong cuộc sống của dân tộc Chăm ở khu vực
Panduranga trước năm 1975. Một thí dụ điển hình đó sự kết hôn giữa người Chăm
Phan Rang và Phan Rí thường ít khi xảy ra. Vì rằng, người con trai không muốn
vượt ra khỏi biên giới của “quê cha đất tổ” mình để lấy vợ ở khu vực khác.
Ngoài biên giới khu vực, người Chăm còn có biên giới thần quyền rất rõ rệt của
mỗi làng xã. Chính vì thế, họ luôn luôn chấp nhận sống chằng chịt, nhà này kế
sát nhà kia trong ranh giới thôn xóm của mình, và họ không chịu nới rộng thêm
biên giới thôn xóm này mặc dù họ là chủ nhân đất đai rộng lớn bao la tọa lạc
ngay trước cổng làng của mình, để rồi sau năm 1975 người Chăm không còn một miếng
đất để xây dựng nhà cửa. Vì không nắm vững ý niệm về biên giới, một số nhà viết
lách tưởng rằng người Chăm có bản chất kỳ thị người ngoài làng lấy vợ làng ta.
Vì quá trung thành với ý niệm về “quê cha đất tổ”, dân tộc Champa trở thành một
nhóm người thụ động sống quanh quẩn trong khu vực mà họ cho đó là biên giới thần
quyền không ai có quyền di chuyển hay xê dịch.
Ðối với dân tộc Việt, biên giới là nơi giới hạn của một lãnh thổ, nhưng biên giới
này không mang yếu tố thần quyền, luôn luôn co giản tùy theo không gian và thời
gian. Vì không mang yếu tố thần quyền, Ðại Việt có quyền nới rộng biến giới của
mình đến bất tận nếu họ có đủ khả năng để bảo vệ. Chính vì thế, biên giới Ðại
Việt chỉ là biên giới kinh tế và quân sự luôn luôn co giản.
Trên lý thuyết, dân tộc Việt cũng có ý niệm về “Quê Cha Ðất Tổ”, nhưng ý niệm
này chỉ là một hiện tượng chứ không phải là bản chất của dân tộc Việt. Vì rằng,
dân tộc Việt luôn luôn có một ý thức hệ rõ rệt về giá trị đất đai. Trong tiềm
thức của dân tộc Việt, họ luôn luôn nghĩ rằng : “một tất đất, một tất vàng”. Từ
ý thức hệ đó, dân tộc Việt xô nhau xâm chiếm Champa ở miền nam để biến đất đai
thành “hàng trăm cây số vàng”. Chúng tôi gọi đó là bản chất bành trướng (nature
expansionniste) của dân tộc Việt trong nghĩa rộng của nó.
Nói tóm lại, ý niệm về biên giới co giản và linh động của Ðại Việt cũng là một
trong những nguyên nhân đã đưa Champa đến sự bại vong.
Gò bó trong truyền thống tín ngưỡng
Trước thế kỷ thứ 15, Bà La Môn Giáo là quốc giáo ở Champa, nhưng tôn giáo này
chỉ dành riêng cho gia đình hoàng gia và vua chúa mà thôi. Người dân thông thường
không thể theo tôn giáo của vua chúa được.
Vì không thể trở thành người Bà La Môn Giáo được, quần chúng Champa phải tin
vào một tín ngưỡng riêng biệt mà chúng tôi gọi đó là tín ngưỡng dân gian. Phong
cách sinh hoạt tôn giáo người Chăm hôm này ở khu vực Panduranga là thí dụ điển
hình.
Tín ngưỡng dân gian này rất là đa dạng không mang một lý thuyết đồng nhất,
nhưng luôn luôn gắn liền với một số di tích tín ngưỡng như Bimong Kalan (đền
tháp), Kut (mộ phần của Chăm Ahier), Ghul (nghĩa trang Chăm Awal) hay Ciet
Praok Patra (tổ tiên của thị tộc) nơi tập trung các thần quyền rất là bảo thủ
không bao giờ cho phép người Chăm mang các di sản tín ngưỡng này theo họ để định
cư nơi khác vì lý do gì đó.
Người Việt là dân tộc theo đạo phật và tục thờ cúng tổ tiên, một tín ngưỡng rất
là linh động, không qui luật gắt gao và cũng không bao giờ ngăn cấm dân Việt phải
giẫm chân một chỗ ở “Quê Cha Ðất Tổ”. Tín ngưỡng này còn cho phép dân tộc Việt
cái quyền di chuyển và định cư bất nơi nào hay sinh sống bất cứ ở nước nào, và
mang cả ông Phật hay bàn thờ tổ tiên đi theo mình, dù trong xe đò hay chở bằng
máy bay sang hải ngoại.
Sự linh động của tín ngưỡng này đã đưa dân Việt dấn thân vào mọi cuộc phiêu lưu
nhằm tìm nơi sinh kế, chiếm cứ đất đai để lập nghiệp. Nói tóm lại, trong tín
ngưỡng dân gian của người Việt, ông Phật và tổ tiên phải có nghĩa vụ đi theo
dân cư Việt để sinh sống chứ không phải dân cư Việt giẫm chân lại một chỗ như
dân tộc Champa để thờ phượng các thần linh này.
Có chăng sự suy tàn của Champa cũng có một phần nào phát xuất từ truyền thống
tín ngưỡng mà thần linh là những nhân vật quá bảo thủ không chấp nhận vượt ra
khỏi biên giới cổ truyền để phát huy kế hoạch kinh tế được xem như là mạch máu
của một quốc gia thời đó.
Thể chế liên bang thời phong kiến
Gần đây, một số nhà nghiên cứu, vì ít tiếp cận với các bài nghiên cứu chuyên
sâu về Champa, cho rằng Champa là quốc gia thống nhất, có thể chế trung ương tập
quyền theo kiểu mẫu của Phương Ðông. Ðây là quan điểm sai lầm mang tính chất
phi khoa học, vì các tác giả này không đưa ra một dữ kiện lịch sử nào để minh
chứng cho lý thuyết của mình.
Trong quá trình lịch sử của Champa, triều đại Bhadravarman I (380-413) là vương
triều duy nhất đã xây dựng thể chế chính trị Champa dựa theo hệ thống quốc gia
thống nhất và trung ương tập quyền theo kiểu Ðại Việt và Trung Hoa. Tiếc rằng,
thể chế này chỉ xảy ra trong vòng 33 năm dưới triều đại Bhadravarman, không đủ
để kết luận một thể chế chính trị của vương quốc Champa được.
Kể từ đầu thế kỷ thứ 20 cho đến nay, tất cả chuyên gia về Champa học đều công
nhận rằng Champa không phải là quốc gia thống nhất, trung ương tập quyền, mà là
một vương quốc liên bang tập trung bốn tiểu vương quốc rõ rệt đó là Amaravati,
Vijaya, Kauthara và Panduranga. Mỗi tiểu vương quốc có vua chúa riêng, hành
chánh riêng và cách điều hành riêng.
Trong nhóm bốn tiểu vương đó, Panduranga là một tiểu vương quốc ở miền nam mang
nhiều yếu tố chính trị, hành chánh và quân sự rất là rõ rệt nhằm biểu tượng cho
thể chế liên bang Champa thời đó. Mặc dù chấp nhận chung sống trong liên bang
Champa, Panduraga thường hay đứng lên chống chính phủ liên bang để bảo đảm thể
chế tự trị của mình và đôi lúc vùng dậy đòi quyền độc lập riêng rẻ.
Ðứng đầu cho vương quốc liên bang là Rajadiraja (vua của vua) chớ không phải là
Patao như một số nhà viết lách đưa ra. Thuật ngữ Rajadiraja (vua của vua) có một
nghĩa rất là rõ rệt đó là quốc trưởng này chỉ là người đại diện cho các vua ở
tiểu vương quốc chứ không phải để cai trị các vua chúa ở tiểu vương quốc này.
Muốn trở thành Rajadiraja (vua của vua) tức là quốc vương liên bang, ông vua
này thường hay dựa vào thế lực kinh tế, quân sự của mình để buộc các tiểu vương
quốc khác phải thần phục. Mặc dù mang chức năng Rajadiraja (vua của vua), nhưng
quốc trưởng này chỉ là nhân vật đại diện cho Champa trên phương diện pháp lý
ngoại giao, vì ông ta không có quyền gì trên tiểu vương quốc khác nếu vua của
tiểu vương quốc này không chấp thuận. Thể chế này còn thể hiện một cách rõ rệt ở
liên bang Mã Lai hôm nay tập trung 9 vua của tiểu vương quốc.
Tổ chức liên bang Champa dưới thời phong kiến có một ưu điểm về thể chế phân
quyền Mỗi địa phương tự quyết định lấy
chính sách cai trị của mình, hành chánh và thuế má của mình. Nhưng thể chế này
thường hay đưa đến những cuộc tranh chấp công khai giữa trung ương và địa
phương vì vấn đề gì đó, nếu quốc trưởng Champa không có đủ sức mạnh để chinh phục
các tiểu vương quốc khác. Ðây là hậu quả chung của một số quốc gia ở khu vực
Ðông Nam Á có thể chế quốc gia liên bang như vương quốc Lào, vương quốc Mã Lai,
v.v.
Thể chế liên bang Champa còn có một tai hại khác. Vì cơ cấu tổ chức này không
phát huy mạnh mẻ được ý thức hệ đoàn kết của một dân tộc và thường làm suy yếu
đi tiềm năng quân sự của một quốc gia một khi vương quốc này tấn công bởi nước
láng giềng.
Sự kiện này thường biểu lộ rõ rệt trong sự liên hệ giữa tiểu vương quốc
Panduranga và chánh quyền trung ương Champa thời đó. Một thí dụ điển hình đó là
trong bao lần Ðại Việt hay Cao Miên xua quân tấn công thủ đô Vijaya, Panduranga
chỉ ngồi im để làm nhân chứng lịch sử. Vì tiểu vương quốc này cho rằng đó không
phải là vấn đề của họ mà là vấn đề của các tiểu vương quốc ở miền bắc. Thế là ý
thức hệ bảo vệ một quốc gia Champa thống nhất nhằm chống lại sự xâm lăng của
ngoại bang, hoàn toàn tùy thuộc vào tình hữu ghị giữa quốc trưởng Champa
(Rajadiraja) ở trung ương và các vua chúa của tiểu vương quốc.
Chế Bồng Nga là nhân vật duy nhất trong lịch sử đã thành công huy động các lực
lượng ở tiểu vương quốc vào chiến tranh chống Ðại Việt trong những năm 1360 và
1390. Sự thành công này có một nguyên nhân chính đáng của nó, vì Chế Bồng Nga
là một quốc truởng có một uy quyền lớn lao mà các tiểu vương quốc nào cũng thần
phục.
Từ qui chế liên bang này, chúng tôi tạm kết luận rằng những trận chiến của Ðại
Việt vào năm 1069, 1306 và 1471 nhằm xâm chiếm lãnh thổ Champa chỉ là sự chiến
thắng của một thể chế quân chủ tập quyền của Ðại Việt chống lại với thể chế
liên bang Champa tập trung các tiểu vương quốc thì đúng hơn.Sự suy tàn của
vương quốc Champa từ thế kỷ thứ 15 đến thế kỷ thứ 19 phát xuất từ nhiều nguyên
nhân chính yếu. Trước tiên là địa bàn dân cư Champa chỉ tập trung ở các khu vực
miền duyên hải rất là chật hẹp với số lượng dân số rất là ít oi, không thể
kháng cự lại với cộng đồng khổng lồ của người Việt ở phương bắc mà dân số càng
ngày càng tăng gấp bội. Chính vì thế, chiến thắng Nam Tiến của người Việt chống
lại dân tộc Champa chỉ là chiến thắng vì số lượng dân cư quá đông đúc.
Nhưng chiến thắng này còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa đó là chủ thuyết
đế quốc của vua chúa Ðại Việt mà các nhà sử học thường gọi là “tiến trình đấu
tranh thường trực để phát huy chủ nghĩa quốc gia hùng mạnh” (poursuite des
données permanentes de la grandeur nationale).
Sự suy tàn của vương quốc Champa còn có một nguyên nhân khác nữa đó là Champa
trở thành nạn nhân của truyền thống văn hóa người Việt. Vì trung thành với chủ
thuyết bá chủ và bá quyền, Ðại Việt không ngần ngại xóa bỏ Champa trên bản đồ
Ðông Dương để rồi biến vương quốc này thành một đơn vị hành chánh của mình. Ðể
tiến đến mục tiêu, Ðại Việt không ngần ngại sử dụng bất cứ mưu đồ chính trị
nào, ngay cả mỹ nhân kế, để nuốt trọn giải đất Champa này.
Chính sách dùng cư dân Việt sinh sống ở Champa để phục vụ cho mưu đồ chiến
tranh xâm lược chống lại nhân dân Champa cũng là một yếu tố quan trọng để giải
thích cho sự suy tàn này. Chính sách xâm chiếm đất đai Cao Miên ở miền nam nhằm
cô lập hoàn toàn Champa, trước khi vùng lên tiêu diệt vương quốc này cũng là
mưu đồ đáng chú ý trong tiến trình của sự suy tàn Champa. Chính sách lợi dụng nội
chiến giữa người Việt để cướp phá tài nguyên Champa, để xâm lấn dần dần đất đai
Champa và cuối cùng để xóa bỏ vương quốc này trên bản đồ cũng là một trong những
bản chất của dân tộc Việt đã đưa vương quốc Champa vào con đường suy vong vào
năm 1832.
Vấn
đề xung đột xã hội Champa trong quá trình lịch sử (từ thế kỷ thứ 11 đến 1832)
Trong
bất cứ lịch sử của một quốc gia nào, vấn đề xã hội luôn luôn là một đề tài quan
trọng trong cơ cấu tổ chức của một cộng đồng. Mọi yếu tố, dù vô tình hay cố ý,
nhằm đưa đẩy dân tộc đến sự xung đột và hiềm thù lẫn nhau, sẽ có một tác dụng
vô cùng tai hại trong cơ cấu tổ chức xã hội đó. Và mọi xung đột xã hội là động
cơ thúc đẩy một tập thể dân tộc đi vào con đường diệt vong.
Trong quá trình lịch sử Champa, vấn đề xung đột xã hội đã trở thành một đề tài
mà nhiều nhà nghiên cứu thường nêu ra. Ða số đã nhận định rằng, sự xung đột
liên tục trong nội bộ Champa mà lịch sử đã từng đề cập là nguyên nhân chính đã
đưa vương quốc này đến chỗ diệt vong.Có 5 nguyên nhân mà lịch sử champa để lại:
-1:
Tranh giành quyền lực giữa hai hòang tôc cau và dừa ngày càng lớn
-2:Các
tôn giáo lớn trong khu vực du nhập ngày càng mạnh, làm đảo lộn trật tự xã hội
champa có từ lâu đời.Xung đột giữa ấn giáo,đạo hồi và nho giáo lên đến đỉnh điểm.
-3:
Chênh lệch giàu nghèo giữa hoàng tộc và các tiểu vương
-4:
Sai lầm quân sự khi đẩy mạnh tàu thuyền giao thương xa bờ nhưng không cũng cố
phòng thủ quân sự,khi dân số ít và thưa thớt.
-5: Nội bộ trong cộng đồng nhân dân không đoàn kết.các tiểu vương chưa thống nhất,
nhất quán trong chính tri,kinh tế và cả quân sự
Xã
hội Champa trước thế kỷ 15
Từ ngày lập quốc đến 1471, năm đánh dấu sự thất thủ thành Ðồ Bàn, vấn đề chiến
tranh nội bộ vẫn là một yếu tố quan trọng trong tiến trình lịch sử của vương quốc
Champa. Trải qua hằng thế kỷ, tư liệu lịch sử cũng đã ghi nhận biết bao biến cố
xã hội trong vương quốc này. Tuy nhiên, những tư liệu đó, nhất là các bản văn
viết trên bia đá đã được tìm thấy ở Champa, chỉ cho phép chúng ta kết luận rằng
mọi xung đột xã hội trước thế kỷ thứ 15 chỉ do một nguyên nhân chính yếu, đó là
việc tranh chấp chính trị nhằm độc quyền cai trị trên vương quốc Champa giữa
hai dòng tộc của các vua Champa thời trước: dòng tộc cây Câu nắm quyền cai trị
tiểu vương quốc Panduranga (Phanrang-Phanri) và Kauthara (Khánh Hòa- Phú Yên) ở
miền nam; dòng tộc cây Dừa, nắm quyền cai trị ở phía bắc Champa, đó là Vijaya
(Bình Ðịnh) Amaravati (Quảng Nam và Quảng Ngải) và Indrapura (Huế).
Chính vì sự khác biệt nguồn gốc giữa hai dòng tộc cây Câu và cây Dưà này mà các
nhà lãnh đạo thường dùng chiến tranh hay vũ lực để tìm lối thoát cho những vấn
đề liên quan đến sự sống còn của liên bang Champa (một thể chế chính trị rất gần
gủi với thể chế liên bang Mã Lai hôm nay). Ðứng trên phương diện lịch sử mà nói,
chiến tranh này chỉ là một phương thức nhằm giải quyết sự xung đột chính trị giữa
hai tiểu vương quốc ở miền nam và ba tiểu vương quốc ở miền bắc, chứ không phải
là vấn đề nội chiến phát xuất từ mối hiềm thù giữa dân tộc Champa. Chính vì thế,
một khi chiến tranh đã chấm dứt, lãnh tụ dòng tộc nào may mắn được làm chủ tình
hình quân sự sẽ trở thành nhà lãnh đạo tối cao của Champa, gọi là vị vua của
các vua Champa (Raja diraja Campa) nắm quyền cai tri trên toàn lãnh thổ của
vương quốc này mà bia đá đã ghi là Po Tanah Raya “Quyền làm chủ trên toàn diện
lãnh thổ›. Ngược lại, dòng tộc nào kém may mắn, thì phải chấp nhận sự yếu thế với
tất cả lòng hãnh diện: không hiềm khích với dòng tộc khác và cũng không tìm
cách trả thù vì sự thất bại của mình. Ðiều đáng nêu ra, là hai dòng tộc Champa
này có một ý thức hệ rất đặc biệt về tư tưởng đấu tranh chính trị của họ. Một
khi đã thành công, chính quyền trung ương Champa thường khắc lên bia đá điều giải
thích nguyên nhân chính yếu của biến cố đã xảy ra và tuyên bố rõ rệt kết quả của
phía thất trận và phía thắng trận. Mặt dù bị thất trận, dòng tộc thua kém này,
nhất là dòng tộc ở miền nam, không bao giờ tìm cách để xóa bỏ những dòng chữ
trên bia đá. Ngược lại, họ coi đó là những kỷ niệm cao cả và thiêng liêng trong
quy luật đấu tranh chính trị: ăn làm vua nhưng không vì thua mà làm giặc. Trong
quá trình lịch sử Ðông Nam Á, quy luật đấu tranh chính trị này chỉ xuất hiện ở
vương quốc Champa mà thôi.
Khởi đầu của sự cách biệt nam bắc Champa
Sự xung đột xã hội đầu tiên trong lịch sử Champa đã xảy ra vào những năm cuối cùng
của thế kỷ thứ 11.
Sau ngày từ trần của vua Champa Jaya Simhavarman đệ nhị vào năm 1044, một tướng
tài xuất thân từ gia đình quan chức trong triều đình Champa, nổi lọan chiếm
ngôi ở thủ đô Vijaya, và tự tôn mình lên làm vua Champa lấy tên là: Jaya
Paramesvaravarman đệ nhất (1044-1060). Vì không đồng ý với chính sách dùng sức
mạnh quân sự để chiếm đoạt ngôi vua Champa, tiểu vương quốc Panduranga ở miền
nam vùng dậy tuyên chiến chống lại chính quyền của Jaya Paramesvaravarman đệ nhất
vào năm 1050, nhưng không thành công. Trong một bản văn viết trên bia đá hiện
còn ở trên tháp Po Klaong Garai (Phan Rang), vua Jaya Paramesvaravarman đệ nhất
chỉ trích kịch liệt nhân dân Panduranga là những “kẻ ngu muội, những người vô
tôn chỉ luôn luôn có thái độ hiềm thù... chống lại vua Campa”. Bản văn kết tội
nhân dân Panduranga trên bia đá này cũng có nghĩa là kết tội dòng cây Câu ở miền
nam chỉ tìm cách xen lấn vào nội bộ Champa ở miền bắc thuộc dòng cây Dừa.
Chiến tranh nội bộ này, mặc dù xuất phát từ sự tranh chấp quyền hành cai trị
vương quốc Champa giữa hai dòng tộc, đã gây rạng nứt xã hội rất nghiêm trọng giữa
dân tộc Champa ở miền nam vốn tôn thờ giai cấp lãnh đạo dòng cây Câu và dân tộc
Champa ở miền bắc, trung thành với cấp lãnh đạo quốc gia thuộc dòng cây Dừa.
May thay, cuộc xung đột này chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn ngủi, bởi vì
các giới lãnh đạo quốc gia giữa hai miền, cũng vì ý thức đến tầm quan trọng của
sự xung đột này, đã tìm cách giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng. Ðể chấm dứt
biến cố này, vua Panduranga chấp nhận sự thất bại của chiến tranh do mình tạo
ra và sẳn sàng ra lệnh, thể theo lời yêu cầu của vua Jaya Paramesvaravarman đệ
nhất, để bắt mỗi người dân Panduranga phải mang vài cục đá đem nộp cho đền tháp
mỗi khi có cơ hội đi ngang qua khu vực này. Truyền thống này vẫn còn lưu truyền
cho đến hôm nay, nhất là cho những ai thường đi ngang đèo Cậu, trên đường đi từ
Phanrang lên Dalat.
Nguyên nhân sự xung đột giữa nam và bắc Champa
Sự thành công của cuộc hòa giải dân tộc vào năm 1050 vẫn là điều đáng chú ý,
nhưng vấn đề xung đột xã hội vẫn là một hiện tượng lịch sử có một tác động tâm
lý sâu đậm trong quần chúng. Và chỉ cần có một yếu tố nhỏ nhoi, biến cố này
cũng có thể trở lại trên bàn cờ chính trị.
Tình hình 1145-1160
Năm 1145, vua Kampuchea
là Suryavarman gởi một đoàn quân hùng mạnh sang thủ đô Vijaya và giết được vua
Champa là Jaya Indravarman đệ tam (1139-1145) trên chiến trường. Ðể thay thế
vua này, một hoàng tử xuất thân từ một gia đình hoàng gia khác, tự tôn mình là
vua Champa, lên ngôi ở Vijaya lấy tên là Rudravarman đệ tứ.
Vì thủ đô Vijaya bị quân Kampuchea chiếm đóng hay là vì sự vùng dậy của nhân
dân Champa ở miền Vijaya chống lại chính quyền cướp ngôi này, vua Rudravarman đệ
tứ phải chạy sang ẩn náu ở tiểu vương quốc Panduranga ở miền nam vào năm 1147,
cùng với đứa con trai của mình, tức là hoàng tử Sivanandana. Trước tình thế
này, tiểu vương quốc Panduranga rất ân cần với gia đình hoàng gia từ miền bắc đến
xin tị nạn trong lãnh thổ của mình. Một vài tháng sau, Rudravarman thoái vị và
xin hậu thuẫn của tiểu vương quốc Panduranga để tôn hoàng tử trẻ tuổi
Sivanandana hiện có mặt tạm thời trên lãnh thổ của mình lên làm vua Champa vào
năm 1147, lấy tên là Jaya Harivarman đệ nhất. Khi đã lên ngôi, mặc dù còn ở
trong lãnh thổ miền nam, Jaya Harivarman đệ nhất đã có danh chánh ngôn thuận để
đòi hỏi quân xâm lược Kampuchea phải rời khỏi thủ đô Vijaya của Champa.
Khi nghe tin này, vua Kampuchea Suryavarman vô cùng phẫn nộ và quyết định gởi một
đoàn quân sang tàn phá vùng Phan Rang vào năm 1148. Sẳn dịp thắng trận, vua Kampuchea đưa
em rể của mình là Harideva lên làm vua Champa ở Vijaya, bất chấp phản ứng của
người dân Champa.
Năm 1148 đánh dấu sự chia đôi đầu tiên của vương quốc này: Miền bắc Champa đặt
dưới quyền cai trị của một ông hoàng tử gốc Kampuchea . Miền nam, đó là chính
quyền của vua Champa Jaya Harivarman đệ nhất, gốc người Vijaya.
Một năm sau, tức là 1149, vua Jaya Harivarman đệ nhất, với sự hổ trợ của đoàn
quân hùng mạnh Panduranga, sang đánh Vijaya, giết được hoàng tử Harideva của Kampuchea . Sau
khi thắng trận, ông tự tôn mình là vua của vua Champa (Raja diraja Campa) trên
toàn lãnh thổ của vương quốc này. Tiếc rằng, đối với nhân dân miền bắc Champa,
Jaya Harivarman đệ nhất chỉ là một công cụ của tiểu vương quốc Panduranga ở miền
nam. Vì không chấp nhận chính sách của vua Jaya Harivarman đệ nhất nhằm dùng vũ
lực để chiếm đoạt ngôi báu Champa, nhân dân Champa ở miền bắc và dân tộc Tây
nguyên là Radê và Mada (Bahnar?) vùng dậy kêu gọi một hoàng tử khác, gốc hoàng
gia Champa ở Vijaya, đó là Vangsaraja, em vợ của vua Harivarman đệ tứ
(1114-1129) đứng ra làm lãnh tụ của phong trào kháng chiến này. Năm 1150, Jaya
Harivarman đệ nhất cho lệnh tấn công hàng ngũ cách mạng của hoàng tử
Vangsaraja, nhất là nhóm Radê và Mada ở Tây nguyên. Bị thất bại, hoàng tử
Vangsaraja chạy sang Ðại Việt để xin viện trợ quân sự nhằm chiếm ngôi lại,
nhưng không thành.
Năm 1151, nhân dân vùng Amaravati cũng vùng dậy đứng sau lưng hoàng tử
Vangsaraja để phản đối lại sự chiếm ngôi của vua Jaya Harivarman đệ nhất. Bốn
năm sau, tức là vào năm 1155, tiểu vương quốc Panduranga, không biết vì lý do
gì, cũng đứng ra để truất phế vua này. Thế là chiến tranh giữa nam và bắc bùng
nổ trong suốt năm năm trường. Phải chờ cho đến năm 1160, vua Jaya Harivarman đệ
nhất mới có thời cơ để dẹp tan sự xung đột quân sự với Panduranga.
Chiến tranh vào năm 1150 giữa vua Champa Jaya Harivarman đệ nhất và nhóm Tây
Nguyên trung thành với Vangsaraja, một hoàng tử mà người Radê và Mada coi như
là dòng chính thống có quyền lên ngôi Champa của họ, đã bị thêu dệt một cách
phi khoa học bởi một số nhà sử học nước ngoài và Việt Nam như một chiến tranh của
người Chăm nhằm đô hộ cao nguyên. Nếu Champa không dính dáng gì với họ, tại sao
dân tộc Radê và Mada lại tình nguyện đem quân giúp hoàng tử Vangsaraja để chống
lại vua Jaya Harivarman đệ nhất từ Panduranga đến cai trị miền bắc.Sự thành
công trong việc chiếm ngôi ở Vijaya của vua Jaya Harivarman đệ nhất đã từng tị
nạn ở Panduranga không phải là sự thành công của cá nhân ngài, nhưng là sự
thành công của toàn dân tộc cây Cau Champa ở miền nam trong công cuộc chiếm đoạt
quyền cai trị ở miền bắc. Ngược lại, dòng cây Dừa cũng có lý do riêng để phản đối
sự hiện diện ở Vijaya của vua Jaya Harivarman đệ nhất. Nguyên nhân chính đó là
Jaya Harivarman đệ nhất, con của vua Rudravarman đệ tứ, không phải là dòng
hoàng gia Champa, chạy sang Panduranga ở miền nam nhằm cầu cứu sự hỗ trợ chính
trị và quân sự để chinh phục ngôi vua.
Tình hình 1190-1220
Sau cuộc nội chiến 1145-1160, tình hình nội bộ Champa trở lại bình thường,
nhưng vấn đề cách biệt giữa dân tộc ở phía nam và bắc Champa vẫn còn là một hiện
tượng đáng lo ngại. Bằng chứng rằng, sau 30 năm kể từ ngày cướp ngôi của vua
Jaya Harivarman đệ nhất (1147-1160), vương quốc Champa đã lâm vào cuộc xung đột
xã hội vô cùng bi đát chưa bao giờ có trong lịch sử Champa. Biến cố này phát xuất
từ sự tranh chấp quyền lực giữa những hoàng tử ở miền bắc Champa, nhằm tạo cho
mình một tư thế với bất cứ giá nào để được toàn quyền làm vua trên đất nước
này. Nếu một số hoàng tử Champa ở miền bắc dùng chính sách kêu gọi nhân dân miền
bắc vùng dậy để yểm trợ cho phe phái mình, cũng có một số hoàng tử kg ngần ngại
mời gọi quân ngoại lai nhằm giải quyết việc nội bộ trong vg quốc này.
Vào năm 1182, tức là bốn mươi năm sau ngày dẹp tan quân Khmer ở Vijaya, một
hoàng tử Champa khác tên là Sri Vidyanandana, gốc người Vijaya, chạy sang
Kampuchea để tìm hậu thuẫn của vua Jayavarman đệ thất. Trong những năm lưu vong
ở đây, ông ta xin vua Khmer phong tước cho mình là hoàng tử nối ngôi (Yuvaraja)
của vương quốc Champa, bất chấp cả qui luật tổ chức chính trị trong vương quốc
này. Vì rằng, chỉ có hội đồng hoàng gia có quyền phong chức hoàng tử nối ngôi của
Champa.
Với hậu thuẫn của một đoàn quân Khmer hùng mạnh, hoàng tử Vidyanandana sang tấn
công thủ đô Vijaya vào năm 1190, bắt được vua Jaya Indravarman đệ tứ
(1167-1190) để đem giao nạp cho vương quốc Kampuchea.
Cũng nhờ hậu thuẫn chính trị và quân sự của vua Khmer là Jayavarman đệ thất mà
hoàng tử Champa Sri Vidyanandana đã làm chủ tình hình chiến tranh ở miền bắc. Ðể
tạ ơn vua Kampuchea hay là không đủ quyền lực chống lại sự thống trị của vương
quốc láng giềng này, hoàng tử Champa Sri Vidyanandana, một khi đã thắng trận,
xin đề nghị (hay là bị buộc phải đề nghị) em rể của vua Khmer Jayavarman đệ thất
lên làm vua Champa ở Viajaya lấy tên là Suryajayavarman. Sau đó, ông ta tự xưng
vua của tiểu vương quốc Panduranga, lấy tên là Suryavarman.Sự cầu cứu quân sự
ngoại lai để giải quyết nội bộ Champa đã phân chia vương quốc này thành hai khu
vực rõ rệt: Miền bắc đặt dưới sự cai trị của một ông vua ngoại lai từ Khmer
sang. Miền nam lại lọt vào trong tay của một ông hoàng tử Champa không phải gốc
Panduranga, nhưng là gốc người miền bắc.Vấn đề tự xưng vương ở Panduranga của
vua Suryavarman, gốc Vijaya đã biến tình hình xã hội miền nam thành một ung nhọt
không chữa trị được. Ðây là lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân Champa miền
nam cảm thấy mình không còn làm chủ trên lãnh thổ của mình nữa. Trước biến cố
chính trị này, nhân dân Panduranga tìm cách vùng dậy, vào năm 1190 không phải để
chống xâm lược ngoại lai, nhưng chống lại hoàng tử Champa gốc miền bắc, mặc dù
không thành công. Trong khi đó, dân tộc Champa miền bắc cũng vùng dậy vào năm
1191 dưới quyền chỉ đạo của hoàng tử Rasupati để đánh đuổi ông vua ngoại lai ở
thủ đô Vijaya.Khi đã thắng trận, hoàng tử Rasupati lên ngôi lấy tên là Jaya
Indravarman đệ ngũ.
Trước tình thế này, vua Khmer không ngần ngại vuốt ve Jaya Indravarman đệ tứ, một
ông vua Champa bị bắt giam ở Khmer vào năm 1190. Ðó cũng là một chiến thuật mới:
dùng người Champa để chống lại với vương quốc Champa. Nhưng đối với vua Champa
là Jaya Indravarman đệ tứ đang tù đày ở Khmer, đây cũng là một dịp may mắn để
chiếm lại ngôi vàng của mình.
Cũng vào năm 1191, vua Jaya Indravarman đệ tứ, đem quân từ Khemer sang hợp tác
với vua Panduranga là Suryavarman để tiến đánh Vijaya. Mặc dù mang danh là người
đứng ra để giúp đỡ Jaya Indravarman đệ tứ để chống lại chính quyền Vijaya, vua
Suryavarman của tiểu vương quốc Panduranga, khi đã thắng trận, tự xưng mình là
vua trên toàn vẹn lãnh thổ Champa. Cảm thấy mình bị lừa bịp trong chiến tranh
này, Jaya Indravarman đệ tứ quyết định tập trung lực lượng của mình từ Khmer
sang để tấn công vua Suryavarman, một nhân vật cướp ngôi, nhưng không thành.
Nghe tin này, vua Kampuchea Jayavarman đệ thất tức tốc gởi quân sang để trừng
trị Suryavarman ở Vijaya vào văm 1193. Thế là chiến tranh giữa Kampuchea và
Champa bắt đầu bùng nổ, một chiến tranh vô cùng khủng khiếp làm đảo lộn hoàn
toàn bao công trình kinh tế và cơ cấu xã hội.
Trong suốt 10 năm chiến tranh, vua Khmer, vì không thể nào chống lại vua
Champa, chỉ còn cách là nhờ Ong Dhanapati Grama, là cậu ruột của vua
Suryavarman, tìm cách cô lập vua Champa này. Thế là vào năm 1203 chính quyền
vua Suryavarma bị lật đổ bởi cậu ruột của mình là Ong Dhanapati Grama, dưới sự
yểm trợ của đoàn quân campuchia.Sau trận chiến này, Champa đã trở thành một thuộc
địa của campachia trong suốt 17 năm, tức là từ năm 1203-1220.
Ðứng trên phương diện lịch sử mà nói, vào những năm 1190-1220, xã hội Champa đã
trở thành hai bãi chiến trường mà dân tộc Champa là nạn nhân chính của chiến cuộc
này. Một bên là chiến trường tranh chấp quyền hành giữa các hoàng tử Champa ở
miền bắc để làm bá chủ vương quốc Champa, còn chiến trường thứ hai dành cho sự
tranh chấp uy quyền giữa hai nước láng giềng Champa và campuchia.
Từ năm 1182 đến năm 1220, nhân dân Champa đang chứng kiến một vở bi kịch lịch sử
với bao nhiêu nhân vật chính trị tranh giành quyền làm Po Tanah Raya:
- Hoàng tử Sri Vidyananda chạy sang lánh nạn ở Khmer vào năm 1182, rồi sau trở
thành vua tiểu vương quốc Panduranga, lấy tên là Suryavarman.
- Vua Indavarman ở Vijaya bị quân campuchia bắt đày sang Kampuchea vào năm
1190.
- Em rể của vua Khmer Jayavarman đệ thất tự xưng vương ở Vijaya Champa lấy tên
là Suryajayavarman.
Chiến tranh với Mông cổ 1283-1285
Sáu mươi ba năm về sau, tức là năm 1283, tiểu vương quốc Champa Vijaya lại bị
quân Mông Cổ chiếm cứ liên tục trong hai năm liền. Vua Champa Indravarman đệ
ngũ, vì không thể đứng ra để đối chọi với đoàn quân hùng mạnh Mông Cổ trong khu
vực đồng bằng, dùng chiến thuật ịnhà không đồng trốngỂ để kháng chiến, quyết định
rút toàn bộ quân sự của mình về phòng thủ ở Tây Nguyên. Biến cố này đã chứng
minh rõ rệt rằng Tây Nguyên là một lãnh thổ của Champa. Cũng nhờ sự yểm trợ của
dân tộc Champa ở Tây Nguyên mà vua Champa Indravarman đã thành công trong công
trình chống lại quân Mông Cổ. Trong suốt hai năm chờ đợi để giao chiến, quân
Mông Cổ, vì không còn lương thực để tiếp tục chiến tranh, quyết định bỏ hẳn chiến
trường Champa để trở về Trung Quốc, vào năm 1285.
Trong cuộc chiến này, tiểu vương Panduranga không lên tiếng phản đối và cũng
không đứng lên hô hào giúp anh em Champa ở miền bắc chống lại quân xâm lược
Mông Cổ. Thái độ tiêu cực này phải chăng là một bằng chứng để giải thích rằng
vương quốc miền nam Panduranga, mặc dù cùng chung sống trong một liên bang
Champa, vẫn coi Vijaya là một tiểu vương quốc riêng biệt, có nền tự trị riêng.
Ðã nhiều lần bị kết tội là muốn cai trị miền bắc, phải chăng Panduranga muốn tỏ
bày thái độ dè dặt hơn trước biến cố chính trị này. Sự dè dặt đó cũng đã chứng
minh rằng, mấy thế kỷ vừa qua, sự xung đột xã hội giữa nam và bắc Champa vẫn là
một vấn đề chủ yếu trong tiến trình lịch sử của quốc gia này
Vai trò Vua Trà Hoa bồ Đề trong chính sách hòa đồng
dân tộc và ngoại giao: 1342-.1360
Vua Trà Hoa Bồ Đê (1342-1360)( Ông là Hậu duệ Vua Chế
Mân,Con rể Vua Chế A Nan).Ông thuộc vương triều thứ 12,Triều đại thứ 9,đóng đô ở
thành Vijaya(Đồ bàn,bình định).Ông chủ trương hòa đồng xung đột dân tộc, xây dựng
kinh tế, hòa hoãn với đại việt và khmer.Vương quốc ông trị vì trải dài từ dãy
hoàng liên sơn phía bắc ,nam giáp đến Đồng nai ngày nay.Đông giáp biển cham
pa(biển đông), tây giáp tây lào.Kinh tế phát triển dựa vào nguồn đánh bắt thủy
sản ngoc trai, đồi mồi,trầm hương,ngà voi,nền nông nghiệp trồng lúa nước nổi tiếng
đông nam á,sản suất gốm sứ,điêu khắc,công nghiệp sx đồng, đồng thau phát triển
rực rỡ,đội tàu thuyền hùng mạnh,quản lí một vùng biển chăm pa(biển đông)rộng lớn
3.500.000km2, cung cấp hàng hóa cho một vùng rông lớn Đông á,tây á.Đội tượng
binh hằng ngàn voi trận thiện chiến đánh lui các cuộc xâm lược của khmer và đại
việt xâm lấn bờ cõi.Tạo tiền đề kinh tế vững chắc cho chế bồng nga sau này
Vai trò Chế Bồng Nga trong chính sách hòa đồng dân tộc:
1360-1390
Hơn nửa thế kỷ sau cuộc tấn công của quân Mông cổ vào năm 1283, tình hình xã hội
Champa giữa hai miền nam bắc tạm coi như là lắng dịu, nhưng ý đồ chia cách giữa
hai miền vẫn còn thể hiện trong tâm tư của dân tộc này.
Năm 1360, Chế Bồng Nga xuất hiện trên bàn cờ chính trị Ðông Dương. Cũng nên nhắc
rằng, Chế Bồng Nga là một vị vua của liên bang Champa, đặt thủ đô của mình ở
Vijaya (Bình Ðịnh). Chế Bồng Nga không dính dáng gì với ông vua Po Binthuor
(hay Cei Sak Bingu trong biên niên sử Panduranga), như nhiều nhà nghiên cứu thường
hiểu lầm. Vì rằng; Po Binthuor là một vị vua thứ 10 của tiểu vương quốc
Panduranga ở miền nam lên ngôi từ 1316 đến 1361 hay từ 1328 đến1373, tùy theo
biên niên sử của tiểu vương quốc này, đặt thủ đô của mình tại Bal Anguai (trong
khu vực Phanrang).
Sự hiện diện của Chế Bồng Nga, một nhà quân sự đại tài nhưng cũng là một nhà
chính trị sáng suốt, đã đem lại cho lịch sử của vương quốc này những ngày vàng
son nhất. Nhằm thực thi chính sách đưa Champa đến một tư thế vững mạnh vừa
chính trị và quân sự trong khu vực Ðông Nam Á này, Chế Bồng Nga cần sự yểm trợ
toàn diện của dân tộc Champa ở hai miền nam và bắc. Chính thế, trong suốt 30
năm cai trị quốc gia này, Chế Bồng Nga vẫn đặt vấn đề xã hội lên hàng đầu. Xã hội
là một lực lượng luôn luôn giữ một vai trò trọng yếu trong mọi biến cố chính trị
và quân sự. Công trình to tát của ngài là vận dụng mọi nỗ lực để hòa đồng dân tộc
giữa nam và bắc, nâng cao ý thức hệ quốc gia nhằm yểm trợ chính sách thu hồi lại
vùng đất của Champa đã bị mất ở phía bắc của ngài và để xác định lại uy quyền
Champa trên bàn cờ chính trị Ðông Dương.
Chưa đầy 30 năm an bình giữa nam và bắc, ung nhọt xã hội trong vương quốc
Champa lại tái sinh. Cái ung nhọt này không phát xuất từ những phong trào nhân
dân chống lại chính quyền Champa của Chế Bồng Nga, nhưng phát xuất từ một số
nhà lãnh đạo Champa vô ý thức, vì quyền lợi và danh vọng riêng tư của mình, họ
không ngần ngại làm mật vụ cung cấp tin tức mật của quốc gia cho ngoại xâm.
Cũng vì mưu đồ của một số nhà lãnh đạo Champa làm tay sai cho địch, vua Chế Bồng
Nga đã bị ngã gục trong chiến trường ở hải phận Ðại Việt vào năm 1390.
Năm 1390 đánh dấu một vở bi kịch mới trong lịch sử Champa. Nếu sự sụp đổ của xã
hội Champa phát xuất một phần nào từ chính sách của một số nhà lãnh đạo Champa
thường hay kêu cứu ngoại lai để củng cố địa vị chính trị của mình trong vương
quốc này, thì kể từ năm 1390, xã hội Champa lại bắt đầu đối phó với một hiện tượng
mới lạ mà hậu quả còn nguy hiểm hơn chính sách cầu cứu ngoại lai, đó là những
mưu đồ của một số tập thể lãnh đạo làm tay sai cho địch.
Chính vì thế, cái chết của vua Chế Bồng Nga vào năm 1390 đã cho chúng ta thấy sự
phát hiện của một chứng bệnh mới gọi là “mưu đồ làm tay sai cho địch” đang diễn
tiến trong cơ cấu tổ chức xã hội của Champa thời đó; một chứng bệnh có một tác
động vô cùng nguy hiểm trong mọi chiến lược quân sự và chính trị của vong quốc này:chỉ vì một giây phút sơ hở, nền an ninh quốc
gia gặp nguy biến.
Sự phân chia nam bắc Champa: 1360-1471
Mưu đồ làm tay sai cho địch nhằm ám hại vua Chế Bồng Nga, một hiện tượng duy nhất
trong lịch sử Champa, phải chăng là một tiếng chuông báo hiệu cho sự suy tàn của
vương quốc này. Bởi rằng, hơn một nữa thế kỷ tính từ ngày tử trận của Chế Bồng
Nga, xã hội Champa đang nằm trên bờ vực thẳm: tranh chấp quyền hành giữa các
nhà lãnh đạo đã trở thành tấn bi kịch xảy ra hàng ngày. Kể từ năm 1360, vương
quốc Champa ngày càng đi đến con đường suy yếu. Sự suy yếu này phát xuất từ hai
nguyên nhân chính: một phần, phải đối đầu chống lại sự xâm lăng của láng giềng
miền bắc, còn phần khác phải đối phó với bao nhiêu chiến tranh nội bộ của mình.
Chỉ trong khoảng thời gian chưa đầy 30 năm, 5 vị vua Champa tiếp nối nhau để
lên ngôi ở thủ đô Vijaya (Bình Ðịnh).
Sự hiện diện của 5 vị vua trên ngai vàng Champa cũng đã chứng minh rằng trong
suốt 30 năm này, Champa có 5 chính sách riêng biệt và 5 lực lượng riêng biệt. Mỗi
lực lượng vì sự sống còn của mình cần đi tìm hậu thuẫn trong quần chúng nhân
dân. Hay nói một cách khác, trong suốt 30 năm này, xã hội Champa chia ra làm 5
phe nhóm để phục vụ cho 5 vị vua Champa.
Sự xung đột không lối thoát trong xã hội Champa kể từ năm 1360, xuất phát từ
gia đình trị và địa phương trị của một số nhà lãnh đạo Champa thời đó, cũng là
nguyên nhân đưa đến sự diệt vong của Vijaya, tiểu vương quốc Champa ở miền bắc
vào năm 1471. Khi đã diệt vong, vấn đề xung đột giữa nam và bắc cũng tự biến mất
trong xã hội Champa. Cũng cần nhấn mạnh rằng, nếu vấn đề nam bắc không còn nữa
kể từ hôm nay, không phải là nhờ chính sách hòa đồng dân tộc do các nhà lãnh đạo
đã đưa ra, nhưng là vì lãnh thổ Champa ở miền bắc đã lọt vào tay của Ðại Việt,
và dân tộc Champa miền bắc đã trở thành một công dân Việt hoàn toàn, kể từ năm
1471.
2. Xã hội Champa từ 1471 đến 1832
Thành Ðồ Bàn (Vijaya) rơi vào tay Ðại Việt vào năm 1471 đánh dấu sự diệt vong của
dòng tộc cây Dừa ở miền bắc. Kể từ đó, Champa tự thu hẹp lại trong lãnh thổ của
tiểu vương quốc Panduranga, nơi tập trung của dòng tộc cây Câu.
Hết đối phó với Ðại Việt, Champa lại gặp phải mối đe dọa mới vô cùng nguy hiểm
đã từng làm rung chuyển bàn cờ chính trị Ðông Dương, đó là chính sách “Nam Tiến”
của nhà Nguyễn từ thế kỷ thứ 16.
Mặc dầu chấp nhận chịu đựng để đương đầu với chính sách “Nam Tiến” này trong suốt
hai thế kỷ đầu, vương quốc Champa cũng rất tự hào với chính sách xã hội của
mình. Nhưng sự an bình và thịnh vượng xã hội đó đã trở thành một vấn đề khúc mắc
một khi nhà Nguyễn quyết định xâm chiếm Champa vào năm 1692 và đặt vương quốc
này dưới quyền cai trị của quân viễn chinh nhà Nguyễn với sự yểm trợ của hoàng
tử Po Saktiraydaputih một nhân vật chỉ đóng vai trò bù nhìn cho triều đình Huế
để được nhận được chức vô cùng tầm thường, đó là “Khám Lý” thay vì “Chiêm Thành
Vương”. Trước thái độ nhu nhược của hoàng tử này, toàn bộ dân tộc Champa tự
vùng dậy vào năm 1693 để giải phóng quê hương của họ.Ðây là một cuộc khởi nghĩa
nhân dân đầu tiên xuất hiện trong lịch sử Champa.
Ngoài mục tiêu đánh đuổi quân nhà Nguyễn ra khỏi vương quốc này, mật trận kháng
chiến nhằm giải phóng Champa còn vùng dậy để quét sạch những người Champa làm
tay sai cho hoàng tử Po Saktiraydaputih và những nhân vật Champa khác vô tình
hay cố ý hợp tác với quân xâm lược nhà Nguyễn. Chiến tranh này kéo dài liên tục
hai năm liền là một thí dụ điển hình minh chứng cho sự xung đột lớn lao trong
xã hội Champa thời đó. Nhưng sự xung đột xã hội này không phát xuất từ sự tranh
giành quyền lợi riêng tư giữa hai tập thể dân tộc Champa, nhưng là sự dị biệt
trong ý thức hệ đấu tranh cho quyền lợi thiêng liêng của Champa. Nếu đa số dân
tộc Champa cương quyết, với bất cứ giá nào, đấu tranh đánh đuổi quân xâm lược
nhà Nguyễn ra khỏi đất đai Champa, một số nhà lãnh đạo Champa khác thích chọn
con đường làm bù nhìn cho nhà Nguyễn để cũng cố địa vị hay danh vọng của mình.
May mắn rằng, đoàn quân kháng chiến đã đánh bại lực lượng xâm lược nhà Nguyễn
vào năm 1694, tập trung mọi nổ lực nhằm hàn gắn lại vết thương xã hội do chiến
tranh gây ra trong suốt hai năm liền.Kể từ những năm cuối cùng của thế kỷ thứ
17, ngoài hiện tượng làm tay sai cho địch đã từng xảy ra dưới thời Chế Bồng Nga
vào năm 1390, vương quốc Champa bắt đầu đối phó với một hiện tượng mới nữa, đó
là một số nhà lãnh đạo chỉ biết dựa vào uy quyền nhà Nguyễn để cai trị quốc
gia. Chính thế mới có cuộc vùng dậy của dân tộc Champa vào năm 1693 để nói lên
sự quyết tâm đoàn kết của dân tộc Champa. Chỉ cần đoàn kết,dân tộc Champa đã dập
tan q.đội hùng mạnh của nhà Nguyễn.
Hơn thế kỷ sau, Champa trở thành một nạn nhân của cuộc tranh chấp chính trị giữa
người Việt Nam ,
hay nói một cách khác, nạn nhân của chiến tranh giữa lực lượng Tây Sơn và Nguyễn
Ánh kể từ năm 1771. Muốn đập phá tổng hành dinh Nguyễn Ánh ở Saigon, Tây Sơn tập
trung mọi nổ lực nhằm chiếm đóng Champa trước để làm nhịp cầu tiến quân trong
chiến lược quân sự. Khi đã chiếm đóng Champa, Tây Sơn tìm cách đưa những nhân vật
Champa thân cận mình lên nắm chính quyền. Nhưng Tây Sơn chỉ làm chủ tình hình
Champa trong khoảng một hay hai năm. Bởi rằng Nguyễn Ánh cũng tìm cách chinh phục
Champa để đặt tổng hành dinh nhằm tiến quân đánh Khánh Hòa, một địa đầu quân sự
của Tây Sơn. Khi đã thành công, Nguyễn Ánh cũng truất phế những nhà lãnh đạo
Champa phục vụ cho Tây Sơn và đưa những nhà lãnh đạo Champa khác, thân cận với
mình, lên nắm chính quyền trong vương quốc này. Biến cố này đã chứng minh rằng
tại sao có sự thành hình của mấy chục chính phủ Champa trong một thời gian chưa
đầy 30 năm.
Trở thành một nạn nhân của chiến tranh giữa nhà lãnh đạo Việt Nam , xã hội
Champa đã đi vào một khúc quanh lịch sử. Ngoài chiến tranh tàn phá kinh tế, tàn
phá cơ cấu tổ chức làng xã và gia đình, xã hội Champa thời đó đương đứng trước
lề vực thẳm. Với sức ép quân sự của ngoại lại, dù Nguyễn Ánh hay Tây Sơn, dân tộc
Champa tự khai trừ lẫn nhau để làm hài lòng cho quân xâm lược. Gần 30 năm chiến
tranh giữa nhà lãnh đạo Việt Nam
đã đưa xã hội Champa vào hố thẳm tăm tối chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử. Vì
quyền lợi riêng tư của mình, của gia đình mình, một số người Champa không ngần
ngại tố cáo anh em Champa ruột thịt trước chính quyền Tây Sơn hay Nguyễn Ánh,
và cũng không ngần ngại loại trừ bất cứ ai không đồng quan điểm với mình. Xã hội
Champa trong suốt thời gian tranh chấp giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh đã trở thành
một xã hội thối nát, không còn nhận diện được ý thức hệ đoàn kết thiêng liêng để
kháng cự chống lại những tập thể xâm lược ngoại lai.
Trước biến cố bi đát này, vua Cei Brei (chứ không phải Po Saong Nhung Ceng như
người ta thường hiểu lầm) - dòng Po Romé, gốc dân tộc Cru đã từng nắm chính quyền
Champa từ năm 1627 - cùng hàng vạn quân Champa và gia đình của mình, quyết định
rời bỏ quê hương để sang ẩn náu ở Kampuchea vào năm 1795. Sự ra đi của vua Cei
Brei đã chứng minh rằng vương quốc Champa không còn chính quyền cai trị nữa.
Cũng trong thời gian này, Po Saong Nhung Ceng, một tướng tài trong triều đình của
vua Cei Brei, gốc dân tộc Chăm (tức là tổ tiên của bà Thềm ở Phan Rí hôm nay),
chạy theo Nguyễn Ánh ở Saigon thành lập một chính phủ lâm thời. Thế là kể từ
năm 1795, Champa có hai chính phủ: một chính phủ lưu vong Champa ở Kampuchea gốc
người Cru và một chính phủ lâm thời ở Sàigon gốc người Chăm. Sự hiện diện hai
chính phủ này là động cơ chính yếu đã đưa hai dân tộc Cru và Chăm đến sự xung đột
không lối thoát. Thêm vào đó, hai chính phủ này đều đặt tổng hành dinh trên
lãnh thổ láng giềng. Mỗi chính phủ lưu vong đều tìm cách gởi cán bộ của mình về
nước để chinh phục lòng dân. Thế là, một tập thể xã hội Champa không tổ chức và
không nhà lãnh đạo đã trở thành một tập thể tự chia ba xẻ bảy nhằm phục vụ hoặc
cho chính phủ lưu vong ở Kampuchea
hoặc cho chính phủ lưu vong ở Sàigon. Một khi đã dấn thân vào cuộc đấu tranh
quân sự để chiếm đoạt ngôi báu, hai chính phủ lưu vong này không còn quan tâm
cho lắm đến hậu quả của chiến tranh, hô hào cho phe phái của mình ở địa phương
tuyên chiến với nhau để nêu cao chính nghĩa của nhóm mình. Ngoài hai nhóm theo
chính phủ lưu vong, tập thể Champa còn lại cũng bị chia ba xẻ bảy để tụ tập
thành nhóm, hoặc ủng hộ cho chính sách Nguyễn Ánh ở miền nam hay cho chính sách
Tây Sơn ở miền bắc. Sự chia ba xẻ bảy này đã biến tập thể dân tộc này thành những
kẻ thù nghịch, để rồi sự sống còn của họ tùy thuộc hoàn toàn vào kết quả của
chiến tranh giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh, chứ không phải tùy thuộc vào ý thức hệ
đoàn kết dân tộc của họ như đã từng xảy ra vào năm 1693.
Năm 1802, Nguyễn Ánh dẹp tan phong trào Tây Sơn và lên ngôi ở Huế, lấy niên hiệu
là Gia Long. Ðể cám ơn Po Saong Nhung Ceng trong công trình đấu tranh chống Tây
Sơn, Gia Long trao trả lại cho Champa quyền độc lập và đưa Po Saong Nhung Ceng
về làm vua Champa ở Panduranga. Gia Long cũng tôn cử Lê Văn Duyệt, một bạn thân
của Champa, làm Tổng Trấn Gia Ðịnh Thành ở Saigon .
Mặc dù Champa độc lập trong biên chế chính trị Việt Nam , nhưng quyền quản trị Champa vẫn
còn tuỳ thuộc vào trong tay của Lê Văn Duyệt hơn là vào uy quyền của triều đình
Huế.
Kể từ ngày Po Saong Nhung Ceng lên nắm chính quyền vào năm 1802, vết thương của
xã hội Champa bất đầu hàn gắn lại. Nhưng sự hàn gắn xã hội này chỉ là một vấn đề
tạm bợ, bởi rằng cộng đồngdân tộc Cru, con cháu dòng Po Romé, vẫn chưa phục tùng
chính quyền Champa của Po Saong Nhung Ceng, một ông tướng đại tài, không xuất
thân từ gia đình hoàng gia Champa.
Mười tám năm sau, Champa lại trở thành nạn nhân lần thứ hai của cuộc tranh chấp
chính trị giữa người Việt Nam
như thời Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Năm 1820, khi Gia Long từ trần, hoàng đế Minh Mệnh
lên nối ngôi vua cha. Vì muốn tập trung toàn quyền cai trị Việt Nam trong tay
mình, Minh Mệnh tìm cách gạt bỏ Tổng Trấn Gia Ðịnh Thành là Lê Văn Duyệt ra khỏi
quyền kiểm soát chính sách Việt Nam ở Champa, nhưng không thành. Mặc dù đã bao
lần nhận lời khiển trách từ triều đình Huế, chính quyền Champa bất tuân chỉ thị
của Minh Mệnh và tiếp tục phục tùng uy quyền Lê Văn Duyệt ở Saigon. Chính vì thế,
Minh Mệnh không ngần ngại tìm kiếm những nhà lãnh đạo Champa thân cận với mình
để lật đổ chính quyền Champa thân Lê Văn Duyệt. Thế là xã hội Champa bị rạng nứt
ra làm hai phe phái: một tập thể theo Lê Văn Duyệt và một tập thể khác phục
tùng triều đình Huế. Hai tập thể cùng chung sống trong một vương quốc Champa này
tiếp tục xung khắc và âm thầm chống báng nhau. Vì quyền lợi riêng tư, một số
nhà lãnh đạo Champa không ngần ngại chạy ra ngoài Huế để mua chức tước, tìm
cách phỉ báng những lãnh tụ Champa phục vụ cho Lê Văn Duyệt ở Saigon.
Kể từ năm 1820, người dân Champa sống trong một không khí vô cùng nặng nề, chỉ
cần một tiếng nói sơ hở đối với Minh Mệnh hay Lê Văn Duyệt, họ có thể trở thành
một nạn nhân của thời đại vì đã bị gán cho một nhân vật nguy hiểm chống đối với
chính quyền Champa thời đó. Cũng từ năm 1820, người dân Champa chịu sống trong
một hoàn cảnh xã hội vô cùng dao động: có khi hai anh em trong gia đình không
còn tin tưởng lẫn nhau; và vì quyền lợi riêng tư, họ không ngần ngại tố tụng
nhau trước chính quyền Việt Nam .
Ngoài biến cố chính trị này, dân tộc Champa, nhất là tập thể nông dân, còn phải
đương đầu với bao nhiêu thống khổ khác, đó là đối phó với một số địa chủ hay cường
hào Champa dựa vào chính quyền hay tài sản của mình để tung hoành bốc lột những
tập thể dân nghèo hay nông dân thiếu nợ. Một khi đã lâm vào hoàn cảnh kinh tế
này, dân nghèo và nông dân Champa chỉ còn cách xin bán thân mình để làm nô lệ
cho điền chủ hay cường hào này. Với phương thức tính tiền lãi hơn 100% một năm
theo kiểu Việt Nam
thời đó, dân nghèo và nông dân Champa làm nô lệ cho họ hơn ba thế hệ của mình,
nhưng nợ vẫn còn. Ðể né tránh số kiếp nô lệ, họ chỉ còn cách là bán ruộng đất
và của cải của họ. Ðó là giải pháp mà điền chủ và cường hào thường mong đợi.
Chính sách này là một phương thức bốc lột hợp pháp chỉ nhằm đưa những người
giàu trở thành giàu thêm,người nông dân nghèo nàn trở thành những đám dân nô lệ.
Năm 1832, Lê Văn Duyệt từ trần, Minh Mệnh đem quân xâm chiếm Champa và ra lệnh
trừng phạt vô cùng dã man những nhà lãnh đạo Champa và tất cả dân Champa theo ủng
hộ Lê Văn Duyệt. Khi đã trừng trị thẳng tay những người cộng tác với Lê Văn Duyệt,
Minh Mệnh tự quyết định xóa hẳn bản đồ Champa trên bán đảo Ðông Dương.
Những dữ kiện lịch sử đã nêu ra ở trên đã cho chúng ta thấy rằng sự xung đột xã
hội, từ thế kỷ thứ 11 đến thế kỷ thứ 15, giữa hai miền nam và bắc Champa phát
sinh từ ý thức hệ đấu tranh giữa hai dòng tộc Câu và Dừa nhằm độc quyền cai trị
vương quốc này. Nhưng sự xung đột giữa hai miền nam bắc này cũng thường tạo cho
dân tộc Champa một ý thức đoàn kết chặt chẽ để bảo vệ sự sống còn của mình, một
khi vương quốc Champa bị tấn công bởi một lực lượng ngoại lai khác.
Từ thế kỷ thứ 11 đến thế kỷ thứ 15, sử liệu đã từng ghi nhận có ba lần chiến
tranh nội bộ giữa nam và bắc Champa. Nhưng 3 cuộc xung đột này đều phát xuất từ
3 vụ xâm lược của ngoại lai chống lại Champa. Trong 3 biến cố chính trị đó, tiểu
vương quốc Panduranga ở miền nam vẫn giữ một vai trò chính yếu trong những
phong trào cách mạng chống ngoại xâm, nhưng vẫn có thái độ tìm cách tự tôn vinh
mình là vua liên bang Champa nhằm nằm quyền cai trị các tiểu vương quốc Champa ở
miền bắc.
Những sử liệu ở trên cũng chứng minh rằng, dân tộc Champa không phải là dân tộc
có bản tánh hiềm thù hay ganh tị lẫn nhau như người ta thường hiểu lầm. Sống
trong vương quốc Champa, họ chấp nhận có hai dòng tộc khác nhau trên phương diện
nào đó, nhưng không vì thế họ dùng chủ thuyết dòng tộc của mình để tự ly khai
ra khỏi vương quốc Champa, mặc dù trên phương diện chính trị, các tiểu vương quốc
có quyền tách rời ra khỏi liên bang Champa để thành lập một vương quốc độc lập
riêng biệt.Sau ngày thất thủ thành Ðồ Bàn vào năm 1471, vấn đề khác biệt nam bắc
không còn nữa. Sự xung đột xã hội đã trở thành một vấn đề giữa dân tộc Champa
trong tiểu vương quốc Panduranga.
Ai cũng công nhận rằng, 1693 là năm đánh dấu cuộc cách mạng lớn lao của nhân
dân Champa nhằm chống lại mưu đồ nhà Nguyễn đã quyết định xoá bỏ vương quốc này
trên bản đồ Ðông Dương. Ðây cũng là một công trình cách mạng nhân dân chống lại
các lãnh tụ Champa bất lực chỉ biết làm bù nhìn cho ngoại bang. Tiếc rằng, cuộc
cách mạng nhân dân Champa đó chỉ là một biến cố chính trị nhất thời, chứ không
phải là một phong trào có một tổ chức qui mô nhằm phát triển mạnh mẽ để đưa ý
thức hệ đấu tranh vào tiềm thức dân tộc.
Từ năm 1693 đến 1832, sử liệu cũng từng nhắc đến hai lần xung đột lớn lao trong
cộng đồng Champa thời đó. Nhưng hai lần chiến tranh nội bộ này cũng đều có một
xuất xứ chung đó là Champa trở thành nạn nhân của chiến tranh giữa người Việt
Nam, dù dưới thời Tây Sơn chống lại Nguyễn Ánh, cũng như dưới thời vua Minh Mệnh
chống lại Lê Văn Duyệt, Tổng Trấn Gia Ðịnh Thành. Sự xung đột xã hội này cũng
phát sinh từ thái độ của một số nhà lãnh đạo Champa thường hay nương tựa vào
quyền hành lớn lao của nhà Nguyễn để xây dựng quyền lợi riêng tư của mình trên
vương quốc Champa nhỏ bé này; phát sinh từ chính sách thống trị của một số điền
chủ hay cường hào Champa thường lợi dụng địa vị và của cải của mình hoặc để làm
giàu trên lưng những người dân Champa nghèo đói, hoặc tìm cách biến tập thể
nông dân Champa nghèo đói thành một tập thể nô lệ (halun) của mình.
Từ năm 1795, sự xung đột xã hội cũng phát xuất từ một yếu tố khác đó là quyền nối
ngôi ở Champa giữa dòng Po Romé (1627-1795) gốc người Chru và dòng Po Saong
Nhung Ceng (1802-1832), gốc người Champa, tức là tổ tiên của bà Thềm ở Phan Rí.
Năm 1832 đánh dấu sự diệt vong toàn diện của vương quốc Champa, nhưng cộng đồng
Champa vẫn còn đó: một cộng đồng không vua chúa, không người lãnh đạo.Chính vì
thế, tiến trình của xã hội Champa sau ngày mất nước đã đi vào một khúc quanh mới,
một khúc quanh mà tôi cùng mọi người, một người champa,tiền thân Malayo
Polynésien mong muốn rằng: hãy bỏ qua đi những xung đột quá khứ,mà hãy học hỏi
những gì tốt đẹp trong quá khứ để cùng nhau hướng đến tương lai tốt đẹp hơn.Trên
cõi đời này ai cũng có đôi lần vấp ngã,Những ai vấp ngã thì phải xác định ta vấp
ngã vì đường đời hay vấp ngã vì chính vũng lấy ta tạo nên.Ta sinh ra trên cõi đời
này điều có anh em, cha mẹ, ông bà, họ hàng,dòng tộc, thủy tổ. Vậy dòng máu ta
chảy từ đời này là sự chắc lọc từ bao đời đi trước để ta thừa hưởng cho ngày
hôm nay.Dân tộc, thủy tổ, họ hàng, ông bà,cha mẹ đi trước đã hy sinh chống lại vô
vàn thiên tai,dịch bệnh , chiến tranh chính vì sự trường tồn hôm nay của chúng
ta.Là thế hệ hôm nay, chúng ta phải phát huy tố chất cha ông để lại, gìn giữ,sáng
tạo thêm nữa,học hỏi nền khoa học hiện đại để sánh vai cùng các dân tộc anh em
tiến bộ, giữ vai trò tiên phong cho dân tộc.
Thay lời cảm tạ: Bộ sưu tập này là một phần trong gia phả họ trà
champa, Tư liệu các nhà nghiên cứu, các nhà khảo cổ học trong và ngoài nước có
uy tín. Tôi thiết nghĩ nó sẽ làm sáng tỏ thêm về văn hóa champa trong quá khứ
đã bị mai một.Nhưng sẽ có thiếu xót, hoặc có sai lệch theo lịch sử rất nhiều
mong mọi người đóng góp ý kiến để xây dựng và mong mọi được lượng thứ .Thay mặt
họ trà champa, tôi xin thành tâm bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến tất cả
các vị!!!
TP.HCM11/11/2011
Trà Thanh Toàn
Cám ơn tác giả đã cung cấp những kiến thức thật bổ ích.
Trả lờiXóa