phần 2
A-CỘI NGUỒN TRONG TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ CHAMPA:
1- Lịch sử champa theo truyền thuyết và
ngôn ngữ học
-Theo truyền thuyết: Trong dân gian Champa rằng: từ trong chốn hồng hoang, dân tộc Champa sống
rải rác thành nhiều nhóm khác nhau trong cảnh sống tiêu sơ mộc mạc của thời Cổ
Ðại. Trên thượng giới có một thần Nữ tuyệt thế giai nhân, có nhiều quyền năng
biến hóa đã giáng thế xuống vùng đất dân tộc Champa sinh sống tại núi “Trầm Hương”
người Champa gọi là “Chơk Ghlâu” tức núi Ðại An Nha Trang tỉnh Khánh Hòa ngày
nay. Nữ Thiên Thần này là Pô Inư Nưgar – Tuy là Nữ Thần linh hiển và tài giởi
phi phàm nhưng khi giáng trần, Pô Inư Nưgar vẫn hành sử quyền năng theo phương
cách thế tục. Là người Champa sinh ra và lớn lên trong lòng dân tộc đã nghe mẹ
ru bằng câu ca dao Champa từ lúc nằm nôi và trầm mình trong môi trường văn hóa
dân tộc, trong tín ngưỡng dân gian champa, được nghe những câu chuyện “bất
thành văn” nhưng truyền khẩu từ đời này sang đời khác về việc dựng nước và giữ
nước của người xưa v.v...có lẽ dân tộc Champa trân trọng nhất là nhân vật truyền
thuyết Pô Inư Nưgar một bậc “hiền mẫu” của dân tộc Champa.
Bà ngao du sơn thủy, quan sát toàn vùng dân cư Champa sinh sống. Bà chứng kiến
tận mắt cảnh đời kham khổ lầm than của vạn lớp dân Champa, Bà liền gom dân lại
thành làng xóm, tổ chức gia đình xã hội theo chế độ mẫu hệ, xây dựng non sông gấm
vóc cho dân tộc Chămpa. Bà dạy quần chúng về cách thức trồng lúa, lập hệ thống
đê điền tưới tiêu; hướng dẫn cư dân vùng biển đóng ghe đan lưới để hành nghề
dánh cá và hòa mình vào biển cả. Dạy dân chúng biết xây dựng nhà cửa, chỉ dạy
dùng dược thảo để chữa bệnh và phương cách cúng bái thần linh. Vừa khai hóa dân
tộc, xây dựng xã hội, vừa xây dựng một quốc gia nông nghiệp đơn thuần và sơ
khai với một xã hội ấm êm, thanh bình cho dân tộc.Vì Bà có công tạo dựng non
sông gấm vóc Champa, cai quản dân lành với tất cả tình thương của một người mẹ
đối với con cái, nên trong truyền thuyết dân gian Champa tôn xưng Pô Inư Nưgar
là “Thần mẹ của xứ sở” chứ không tôn xưng Bà là vua Champa. Pô Inư Nưgar có
công khai hóa dân tộc và tạo dựng ra non sông gấm vóc Champa, nên vào thế kỷ thứ
IX Vua Harivarruan I đã xây đền tháp và tạc tượng để thờ Bà, đó là Tháp Pô Inư
Nưgar, người Việt gọi là Tháp Thần Nữ Thiên Y Ana tọa lạc trên ngọn đồi gần xóm
Bóng và biển Nha Trang.Cũng trên đồi này trước đây hồi thế kỷ thứ 7 và thứ 8 có
xây 02 cụm Tháp nữa và trong cụm Tháp này có một pho tượng bằng vàng. Năm 774,
quân binh Mã Lai quấy nhiễu vùng Kâuthara (Nha Trang) phá hủy ngọn Tháp và cướp
đi Tượng vàng quí giá này. Mười năm sau tức vào năm 784 ngôi Tháp bị phá hủy mới
được xây lại với pho tượng bằng đá chung quanh các tầng Tháp, ở mỗi gốc tường của
Tháp có hình vũ nữ Apsara và bò Thần Nandin.Những người dân sống chung quanh đồi
Tháp rất tin vào sự linh hiển của Nữ Thần Pô Inư Nưgar và thường hay đến cúng
bái mỗi khi họ muốn cầu xin những phước lành nào đó về việc làm ăn sinh sống kể
cả bệnh tật ốm đau.Ngoài quần thể Tháp Pô Inư Nưgar (Tháp Bà) Nha Trang, tại một
số địa phương khác cũng lập những miếu thờ Nữ Thần như các thôn Hữu Ðức ở Huyện
Ninh Phước, Thôn Bình Nghĩa thuộc Huyện Ninh Hải tỉnh Ninh Thuận. Tại Bình Thuận
có Thôn Lạc Trị thuộc Huyện Tuy Phong, thôn Quản Mía thuộc huyện Bắc Bình;
ngoài ra người ta còn thấy một số chùa người Hoa Kiều tại các địa phương thuộc
hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận có thờ Thần Nữ Thiên Y A Na tức Pô Inư Nưgar
Champa .Ðối với truyền thuyết về tổ tiên Chămpa do đâu mà ra, cũng như truyền
thuyết về ai có công khai hóa dân tộc và khai sáng ra đất nước Champa tuy không
phải là câu chuyện hoàn toàn có thật, không có chứng cứ khoa học làm nền tảng,
nhưng nó là bóng dáng của trình tự lịch sử dân tộc Champa, là chất xúc tác làm
cho mọi người đồng chủng quây quần về nguồn cội tổ tiên, nó đem lại sự hợp nhất
giữa tiền nhân và muôn ngàn thế hệ cùng màu da thớ thịt nối tiếp, nó đem lại
tính tự hào dân tộc làm cho con cháu quây về một mối.
Trên đất nước Champa cổ trước đây đã xẩy ra nhiều cuộc chiến khốc liệt; khi trường
kỳ, lúc âm thầm, có khi chớp nhoáng với Trung Hoa, Ðại Việt, Châu Lạp, Java
(Nam Dương), Mông Cổ, nhất là những cuộc chiến trường kỳ giữa trung quốc và
Champa vào năm 605 đoàn quân viễn chinh Trung Hoa, dưới sự Tổng chỉ huy của Tướng
Lưu Khương sang xâm chiếm Champa đánh phá Khú Túc (vùng Thừa Thiên) và Kinh
Thành Trà Kiệu (Quảng Nam), tàn phá kinh thành cướp bốc tài sản và thiêu hủy tất
cả những tài liệu chính sử từ ngày đầu lập quốc và những cuộc chiến kế tiếp với
các quốc gia nêu trên đã tiến những trung tâm văn khố và sử liệu Champa thành
những đóng tro tàn.
Do đó muốn tìm hiểu tiến trình lập quốc Champa từ cội nguồn cho đến ngày sung
vong, các nhà nghiên cứu khoa học phải bằng vào những sử liệu thành văn của một
số quốc gia lân cận có liên quan với Champa trước đây như Trung Hoa, Ấn Ðộ, Ðại
Việt, Châu Lạp và những thành tựu khoa học về ngành ngôn ngữ học, về khảo cổ học
để soi sáng.
- Theo ngôn ngữ học:Các nhà khoa học
Tây Phương nghiên cứu về cội nguồn dân tộc Champa theo phương diện ngôn ngữ học,
đã xếp loại dân tộc champa thuộc nhóm gia đình
ngữ học Mã Lai đa đảo (Malayo Polynesian) hay một danh xưng khác gọi là nhóm
gia đình ngôn ngữ Nam đảo (Austronesian). Nhóm ngữ hệ Mã Lai Ða đảo bao gồm mấy
trăm ngôn ngữ tập trung trong một khoản không gian rộng lớn bao gồm các ngôn ngữ
lục địa Ðông Nam Á – Mã Lai và Champa, toàn bộ ngôn ngữ Phi Luật Tân và cả ngôn
ngữ của Madagascar ngoài khơi Châu Phi.
Vì cùng nhóm với ngữ hệ Nam đảo (Austronesian) nên ngôn ngữ Mã Lai và ngôn ngữ
Champa có nhiều tiếng rất tương đồng với nhau và nhất là đã có một quá trình
giao lưu văn hóa và bang giao lịch sử trước đây khi Champa chưa mất tên trên địa
bàn sinh hoạt chính trị Ðông Dương.
Trên lãnh địa của Vương Quốc Champa cổ, tức miền Trung của Việt Nam ngày nay, tiếng
champa và các sắc tộc Hroi, Raglai, Churu, Jarai Radhé, Banar, Stieng v.v...
thuộc hệ ngữ Nam
đảo hay là Mã Lai Ða đảo (Malayo – Polynesian) và được khoa ngôn ngữ học gọi
chung là nhánh ngôn ngữ champa (The Chamic Langreceges). Trong nhánh ngôn ngữ
này lại chia thành hai nhánh:
Nhánh thứ nhất gồm ngôn ngữ Chăm, Hroi, Raglai, Churu một nhánh phía Nam
Champa.
Nhánh thứ hai gồm Radhé, Jarai, Banar, Koho là nhánh phía Bắc thuộc lãnh địa
Champa.
Sự phân chia ngữ hệ Nam đảo của các sắc tộc tại Champa thành hai dòng Nam Bắc
này, cho chúng ta thấy phù hợp với truyền thuyết về nguồn gốc hình thành quốc
gia Champa từ hai thị tộc khác nhau:
-Thị tộc Nam còn gọi là dòng Cau (Pinăng), người Champa gọi là “Tâu Thih”; trong
bia ký Phạn ngữ ghi là Kramuka Vams’a.
-Thị tộc Bắc còn gọi là dòng Dừa (Liu), người Champa gọi là “Tâu Chơk”, trong
bia ký Phạn ngữ ghi: Narikela Vams’a.
Hai thị tộc Bắc Nam ,
người Champa gọi là “Tâu Chơk” và Tâu Thih ngày nay người ta còn tìm thấy xuất
hiện trong lễ hội múa lớn gọi là “Rija” Praung” của người Champa ngày nay.
Qua những sự kiện nêu trên, khoa Ngôn ngữ học đã gợi mở cho ta thấy côi nguồn lập
quốc Champa khởi đầu, gồm hai thị Tộc trấn thủ 2 vùng khác nhau bất hòa với
nhau trước khi đem đến một quốc gia Champa Thống Nhất và ổn định.
2- Theo sử liệu Trung Hoa:
Theo sách Thủy kinh chú, vào cuối thời Hậu Hán (190-193) sau công
nguyên, người Trung Hoa thường nói đến một dân tộc ở huyện Tượng Lâm về phía
Nam của Nam Việt mà người hán gọi là người “Man” thường nổi lên đấu tranh chống
lại sự tàn bạo của chế độ phong kiến nhà Hán. Sau một thế kỷ liên tục nổi dậy,
cộng đồng dân cư ở huyện Tượng Lâm này tuyên bố độc lập và khai sáng ra đất nước
Lâm Ấp do Khu Liên làm thủ lãnh và xưng vương. Tên nước Lâm Ấp là tiền thân của
Champa sau này. Ðây là giai đoạn đầu lập quốc; còn sau này khi đất nước Champa
được tổ chức quy củ rồi, giữa Trung Hoa và Champa cũng có giai đoạn bang giao tốt
đẹp, cũng có lúc Champa phải triều cống, có lúc chiến tranh khốc liệt giữa hai
quốc gia vì tham vọng thôn tính của Trung Hoa. Cột đồng mã viện là mốc ranh giới
đầu tiên giữa nhà Hán và dân cư gốc Nam Đảo. Sự kiện này chứng minh các
nhóm dân cư gốc người việt theo nhà Hán sinh sống trên phần đất phía nam quận
Nhật Nam rất e ngại những cuộc
tấn công của người Nam
Đảo từ phía nam. Về địa điểm của cột đồng, sử cổ Trung Hoa như Hậu Hán thư
và Thủy Kinh chú cho rằng nó nằm ở phần lãnh thổ cực nam của nhà Hán (quận
Nhật Nam) ở huyện Cửu Phong (tỉnh Quảng Trị ngày nay). Những nguồn sử khác như Tấn
thư, Nam
thư và Lương thư cũng cho rằng cột đồng được dựng lên ở phía nam huyện
Tượng Lâm (phía bắc Thừa Thiên-Huế). Tân Đường thư thì cho rằng cột đồng
được dựng lên ở phía nam Quảng Châu.Nổi dậy ở Tượng Lâm:Sau
biến cố Hai Bà Trưng, tình hình chính trị ở phía nam huyện Tượng Lâm, luôn dao
động.Mùa hè năm 100, hơn 2.000 dân Tượng Lâm nổi lên phá đồn, đốt thành, giết một
số quan quân cai trị. Chính quyền đô hộ phải huy động quân của các quận huyện
khác đến dẹp, giết được chủ tướng, cuộc nổi loạn mới tạm yên. Từ đó chính quyền
nhà Hán không dám ức hiếp một cách thô bạo dân cư tại đây nhưng đặt vùng đất
này dưới quyền cai trị trực tiếp, do một binh trưởng sứ cầm đầu, đề phòng những
cuộc nổi loạn sau này. Để lấy lòng dân cư địa phương, quan quân nhà Hán tổ chức
phát chẩn cho dân nghèo, miễn thuế hai năm v.v.Mục đích của chính sách cai trị
trực tiếp này là thu thuế và nhận phẩm vật triều cống (vàng, bạc, sừng tê giac,
ngà voi, móng chim ưng, hương liệu, vải lụa) càng nhiều càng tốt. Thuế và phẩm
vật triều cống do những lãnh chúa địa phương thay mặt nhà Hán thu của dân. Như
vậy nhà Hán vừa có thu nhập vừa không hao tốn ngân quỹ, lại duy trì được ảnh hưởng
trên vùng đất đó, bù lại lãnh chúa địa phương được sắc phong và được bảo vệ khi
bị tấn công.Theo sử liệu cổ của Trung Hoa (Hậu Hán thư, Lưu Long truyện,
Mã Viện truyện) ghi lại thì người huyện Tượng Lâm luôn chống đối lại
chính sách cai trị của nhà Hán và thường tranh chấp lẫn nhau về quyền cai trị tại
vùng đất này. Tượng Lâm ở quá xa chính quốc nên sự cai trị trực tiếp của những
quan đô hộ và binh lực nhà Hán làm hao tốn công quỹ mà lợi ích chính trị và
kinh tế không cao, do đó đã rất lơ là.Năm 136, khoảng 1.000 dân Tượng Lâm nổi
lên chống lại sự cai trị của nhà Hán và đánh chiếm huyện Tượng Lâm, họ đốt
thành và giết trưởng lại (huyện trưởng). Năm sau thứ sử Giao Chỉ là Phàn Diễn
phải điều hơn 10.000 binh sĩ từ hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân xuống đàn áp
nhưng thất bại. Thay vì đi dẹp loạn, đoàn quân này lại phối hợp với dân quân Tượng
Lâm chống lại và chiếm đóng một số thành quách khác trong quận, quan quân Đông
Hán phải rút lui khỏi huyện Tượng Lâm.Năm 138, Giả Xương, quan thị ngự sử nhà
Hán đi sứ phía nam, đã cùng với các quan thái thú trong quận Nhật Nam gom quân
dẹp những cuộc nổi loạn ở huyện Tượng Lâm. Sau gần một năm, tất cả đều thất bại,
và họ còn bị quân địa phương bao vây hơn cả năm trời. Từ đó nhà Hán mất tin tưởng
ở đám quan quân địa phương và chỉ tin dùng quan quân từ Trung Hoa đưa xuống.
Năm sau Hán Thuận Đế sai tướng Cổ Xương huy động 40.000 quân ở các châu Kinh,
Dương, Duyên, Dự xuống đàn áp cuộc nổi dậy. Cổ Xương bị quân nổi loạn đánh bại,
nhà Hán sai một tướng khác là Lý Cố mang viện binh tiếp trợ nhưng Lý Cố viện
các lý do để hoãn binh. Cuộc tiến quân bị dừng lại.kế sách của Lý Cố là:-Ly
gián nội bộ những người nổi loạn bằng cách mua chuộc những lãnh chúa địa phương
nhằm làm suy yếu tiềm lực của dân quân Tượng Lâm-Tránh can thiệp bằng quân sự
vào tranh chấp cục bộ của người địa phương-Chỉ để lại một quan lại người địa
phương thay mặt thiên triều cai trị-Vấn đề lãnh đạo địa phương để cho người địa
phương chọn lấy, người thắng cuộc được thiên triều tấn phong-Quan cai trị địa
phương phải là một lãnh chúa thần phục thiên triều-Tước Vương Hầu (dành cho người
nhà Hán) và Liệt Thổ (người địa phương).Để thực hiện mưu kế này, nhà Hán phong
Trương Kiều làm thứ sử Giao Chỉ và Chúc Lương làm thái thú Cửu Chân; cả hai có
nhiệm vụ thu thuế và nhận phẩm vật từ những quan lại được nhà Hán tấn phong.
Trương Kiều đã thu phục được hàng chục ngàn dân thường của Nhật Nam và Tượng
Lâm qui thuận Hán triều.Năm 144, dân quận Nhật Nam và huyện Tượng Lâm lại nổi
lên chống lại ách cai trị của nhà Hán, nhưng bị thứ sử Hạ Phương đánh bại. Năm
157, Chu Đạt cùng với dân chúng Cửu Chân nổi
lên giết huyện lệnh Cự Phong và thái thú Nghê Thức chiếm quyền lãnh đạo. Sự kết
hợp tự nhiên giữa dân chúng hai quận Cửu Chân và Nhật Nam gây nhiều bối rối cho các quan
quân cai trị. Dưới sự chỉ huy của đô úy quận Cửu Chân là Ngụy Lãng, quân Hán phản
công quyết liệt, giết hơn 2.000 dân Cửu Chân, phe nổi loạn phải chạy xuống phía
nam chiếm quận Nhật Nam và chống trả lại. Trong ba năm, từ 157 đến 160, quân Tượng
Lâm (khoảng 20.000 người) tiến lên đánh quân Hán và chiếm nhiều huyện khác của
Nhật Nam. Vài năm sau, năm 178, Lương Long cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại
quân Hán, chiếm được nhiều vùng đất từ Giao Chỉ đến Hợp Phố và từ Cửu Chân đến
Nhật Nam; năm 181 Hán vương cử Lã Đại mang quân sang đánh dẹp.Đến đời Hán Sơ
Bình (190-193), nhân nội tình Trung Hoa rối loạn, dân Tượng Lâm, phối hợp với
dân 2 quận Cửu Chân và Nhật Nam, nổi lên đánh đuổi quân Hán và giành thắng lợi.
Năm 192, tiểu vương quốc Chăm pa đầu tiên phía bắc ra đời, dưới tên gọi Lâm Ấp dưới sự lãnh đạo của Khu Liên.
Tiểu vương quốc này mở đầu cuộc đấu tranh giành độc lập của người Kinh ở phía bắc
và phong trào thống nhất vương quốc Chiêm Thành ở phía nam.Năm 190, người
Tượng Lâm nổi lên giết thứ sư Chu Phù và chiếm huyện thành. Vài năm sau, năm
192, dân cư Tượng Lâm lại nổi lên giết huyện lệnh (huyện trưởng) và tôn Khu
Liên, con một quan công tào (xã trương) địa phương, lên làm vua. Khu Liên tự tiện
xén một phần lãnh thổ cực nam của quận Nhật Nam - huyện Tượng Lâm – thành lập một
vương quốc riêng :Lâm Ấp.Lâm Ấp:một biến cố lịch sử Cho đến nay gần như không một
sử gia Việt Nam nào quan tâm đến biến cố Lâm Ấp. Có lẽ nhiều người cho rằng Lâm
Ấp không quan trọng vì không dính líu gì, nếu không muốn nói là thù địch, với
người Việt Nam. Tất cả đều rất lầm. Cuộc nổi dậy của người Lâm Ấp là của chính
dân tộc Việt Nam ,
người Việt cổ, vào thời đó. Lâm Ấp là một biến cố lịch sử trọng đại, mở đầu
giai đoạn đấu tranh giành độc lập của những dân tộc bị chặc đặt dưới ách đô hộ
của người Hán. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa, một lãnh thổ đặt dưới
quyền kiểm soát trực tiếp của thiên triều đã tự tách ra và tuyên bố độc lập. Sự
kiện này trái với nguyên tắc tổ chức chính quyền của người Hoa, vì từ thế kỷ thứ
hai trước công nguyên trở đi, dưới thời nhà Hán, nguyên tắc trung ương tập quyền
đã là nền tảng của các chính sách cai trị của người Trung Hoa, không có ngoại lệ.
Giao Chỉ thời đó là một phần lãnh thổ Trung Hoa, các quan cai trị đều do thiên
triều trực tiếp chỉ định, mọi ý đồ ly khai hay tự trị đều bị trừng trị. Mục
đích của chính sách trung ương tập quyền này là giữ gìn và bảo vệ sự toàn vẹn
giống nòi, người Hán không chấp nhận bất cứ một pha trộn tạp chủng ngoài chủng
tộc Hán với nhau.
Một lấn cấn khó chịu là trong suốt thời Bắc thuộc, đại bộ phận giới "quí tộc"
Lạc Việt (Lạc hầu và Lạc tướng), và người Kinh - bị khuất phục bởi văn minh và
văn hóa do người Hán mang lại - đã hợp tác với người Hán trong việc quản trị đất
nước, đương nhiên ở những địa vị thấp hơn. Những cuộc nổi dậy chống lại chính
sách cai trị hà khắc và muốn tách khỏi văn minh và văn hóa của người Hán, phần
lớn đều do người Mường (hai Bà Trưng năm 42 và bà Triệu năm 248) và người Nam Đảo
(Mai Thúc Loan năm 722) khởi xướng. Những cuộc nổi dậy của người Kinh - Lý Bí,
Triệu Quang Phục, Lý Phật Tử (thế kỷ 6 và 7), Phùng Hưng và Dương Thanh (thế kỷ
8), Khúc Thừa Mỹ và Dương Đình Nghệ (thế kỷ 10) - đều xuất phát từ động cơ bất
mãn của những người cộng tác không được ưu đãi hơn là ý chí giành độc lập hay
muốn tách khỏi ảnh hưởng của người Hoa. Chỉ đến thời Ngô Quyền ý chí độc lập của
người Việt mới rõ ràng nhưng người Kinh lại xem người Champa là đối thủ, nên đã
không ngừng phân biệt đối xử vì văn hóa khác biệt và uy hiếp họ trong suốt thời
kỳ tự chủ, quên hẳn quá khứ ruột thịt đã qua.
Trở về với Lâm Ấp, khi thành lập vương quốc riêng có lẽ Khu Liên không có ý định
tách rời ảnh hưởng văn minh và văn hóa Trung Hoa, nhưng với thời gian quyết tâm
tách khỏi quỹ đạo Trung Hoa ngày càng rõ nét. Sở dĩ có sự đoạn tuyệt này là vì
tổ chức chính trị xã hội của người Hoa không còn phù hợp với nền tảng chính trị
xã hội Champa nữa.
Vào thời kỳ này, thương nhân và tu sĩ Ấn Độ đã giao tiếp mật thiết với người
Champa sinh sống ven biển miền Trung. Khi ở lại chờ thuận buồm xuôi gió trở về
quê cũ, những người Ấn này đã truyền cho giới quí tộc địa phương văn minh và
văn hóa của họ, và đương nhiên truyền luôn cả cách thức tổ chức xã hội. Khác với
người Hoa, tổ chức xã hội của người Ấn dựa trên nguyên tắc tản quyền và phân
quyền, phù hợp với nếp sống và ước nguyện tự trị của người địa phương nên rất
được ưa chuộng. Đặc điểm của người Ấn là không dùng bạo lực để áp đặt văn hóa
hay uy quyền chính trị của mình trên những xã hội khác, kém hơn, mà để các thân
hào địa phương tự nguyện làm thay, sau khi hấp thụ văn minh và văn hóa của họ.
Tranh chấp văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ trong nội bộ Champa ngã ngũ sau khi Khu
Liên qua đời, chữ Phạn cổ (sanscrit, một loại chữ viết xuất phát từ miền nam Ấn
Độ cách đây hơn 2.000 năm) trở thành chữ viết chính thức của các triều vương.
Các bia ký tìm được trong giai đoạn này đều khắc bằng chữ Phạn. Quốc thư trao đổi
của Champa với Trung Hoa thời đó được viết bằng chữ "Hồ" (chữ cua nước
Hồ Tôn Tinh, tức chữ Phạn) thay vì chữ Hán. Văn hóa Ấn Độ, từ phía Nam
đưa lên, trở thành văn hóa của toàn vương quốc Champa. Đạo Bà La Môn và đạo Phật
được phổ biến rộng rãi trong quần chúng, lấn át ảnh hưởng đạo Khổng và đạo Lão
của văn hóa Trung Hoa để lại trong vương quốc. Cũng nên biết thờ cúng ông bà là
tín ngưỡng dân gian của người bản địa, Kinh hay Chăm, do đó rất được kính trọng,
giáo lý và nghi lễ các tôn giáo khác phải thích hợp nếu muốn được ủng hộ.
Về chính trị, các vị vua Champa đều gán ghép tên mình với một thần linh, thường
là với Siva (còn gọi là Isvara) để có độc quyền cai trị. Uy quyền vua thể hiện
qua cái lọng màu trắng mà dân gian không được dùng. Phụ tá nnhà vua là các quan lại trung ương và địa
phương, được phân chia thành ba hạng : đứng đầu là hai vị tôn quan (senapati và
tapatica-hai tể tướng võ và văn), kế là thuộc quan gồm ba hạng : luân đa đinh
(dandavaso bhatah-tướng chỉ huy cấm vệ), ca luân trí đế (danay pinang, quan hầu trầu) và ất tha già lan
(yuvaraja-kế vương), sau cùng là ngoại quan (quan lại địa phương). Quân lực Lâm
Ấp khoảng từ 40 đến 50.000 người, gồm kỵ binh, tượng binh và thủy binh, Triều
đình Trung Hoa có lẽ cũng muốn chấm dứt tình trạng tranh chấp văn hóa và chính
trị kéo dài quá lâu này nên đã chấp nhận sự ly khai một cách miễn cưỡng, họ đặt
tên quốc gia mới này là Lâm Ấp, thay vì Hồ Tôn Tinh hay Tượng Lâm như trước
kia, và duy trì mối quan hệ tốt để nhận càng nhiều phẩm vật triều cống càng tốt.
Về danh xưng,Lâm Ấp chỉ là sự biến nghĩa cua chữ Tượng Lâm. Đối với nhà Đông
Hán,danh xưng Lâm Ấp là một khinh miệt của nhà hán, vì đó chỉ là một phần đất
nhỏ không quan trọng ở vùng cực nam để thiên triều phai quan tâm trực tiếp.
Sách Thuy Kinh Chú giai thích : "Lâm Ấp là huyện Tượng Lâm, sau bo chữ Tượng
để chỉ còn chữ Lâm". Cũng nên biết ngôn ngữ Trung Hoa trong thời kỳ này có
nhiều hạn chế trong việc phiên âm các tên ngoại quốc : Lâm Ấp là cách phát âm
Việt hóa từ chữ Lin-yi, phiên âm từ chữ "Hindi" hay "Indi",
tức người Ấn. Có người nói đó là cách phiên âm từ chữ Phạn
"Indirapura" (đất của người Ấn Độ). Về sau người Champa đặt tên phần
đất từ Quảng Bình đến Thừa Thiên là Indrapura (đất của Indra, thần sấm sét). Lâm Ấp
cũng có thể do sự phát âm Việt hóa từ chữ "Krom" hay "Prum"
(hai tộc của người Việt cổ) mà ra.Bình dân hơn người ta giai thích :Lâm là rừng,Ấp
là thôn nho v.v... Nói chung,cho dù diễn giải thế nào Champa là một định chế độc
lập với vương triều Trung Hoa tại Giao Chỉ.
Về tên gọi Khu Liên cũng thế, có rất nhiều tranh cãi. Sử sách Trung Hoa viết
tên vị vua đầu tiên của Lâm Ấp là Khu Liên, có sách viết là Khu Quỳ, Khu Đạt
hay Khu Vương. Nhiều sư gia cho rằng Khu Liên thuộc dòng dõi cua bộ tộc Dừa ơ
phía Bắc… Thật ra Khu Liên không là tên của người nào cả, đó chỉ là cách gọi một
cách kính trọng một người có ngôi vị cao trong một định chế tập thể (làng, xã,
huyện…). Đối với dân chúng địa phương, "Khu" không phải là tên riêng
mà là tước vị của một tộc trưởng (lãnh chúa), phiên âm từ chữ
"Kurung" (như các vua Hùng) của người Việt cổ – hay chữ
"Varman" của người Champa từ tiếng Phạn, có nghĩa là tước tộc trưởng,
lãnh chúa hay vua. Trước đó, năm 137, các quan đô hộ nhà Hán gọi
quân phan loạn ở Tây Quyển (Quảng Bình) là "rợ Khu Liên". Như vậy Khu
Liên chỉ là tên gọi chung những người không cùng văn hóa với người Hán ở phía
nam Giao Chỉ. Tên gọi này không liên quan gì đến danh xưng Sri Mara (tên một vị
vương tôn người Chăm khác cùng thời kỳ, con bà Lona Lavana ở Panduranga) tìm thấy
trên một bia ký bằng đá granít (ngang 1 mét, dày 1 mét, cao 2,5 mét) ở làng Võ
Cạnh (nay thuộc xã Vĩnh Trung), Nha Trang.
Về địa lý, vương quốc Lâm Ấp ở đâu, rộng hẹp như
thế nào ? Còn rất nhiều điểm tối, không ai rõ. Theo sử cổ Trung Hoa thì lãnh thổ
vương quốc này là huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam , phía nam huyện Lô Dung (Thừa Thiên
ngày nay). Đường Thư nói Lâm Ấp từ huyện Tây Quyển (Quảng Bình) trở xuống. Đại
Nam Nhất Thống Chí nói Tượng Lâm là Bình Định và Phú Yên. Thuy Kinh Chú cho biết
thu phu Lâm Ấp lúc đầu không biết ở đâu, sau được biết đặt tại Khu Lật (Huế, Thừa
Thiên), phía Nam có sông Lô Dung (sông Hương) chay qua. Một cách tóm lược, dựa
vào sử sách xưa, lãnh thổ Lâm Ấp có thể đã trải dài từ Quảng Bình đến Quảng Nam . Một số
chuyên gia Champa cho rằng Lâm Ấp là lãnh thổ Indrapura (đất của thần Indra), từ
mũi Hoành Sơn đến đèo Hải Vân, do vương triều Gangaraja, tức những người Ấn Độ
đến từ sông Gange, khai sinh ra. Sự kiện này cần được ghi nhận với tất cả dè dặt
vì cho đến nay chưa một dấu tích bia ký nào giải thích sự kiện này.
3- Theo khoa khảo cổ học:
Nhà nghiên cứu khoa học người Pháp Etienne Aymorier vào năm 1885 đã khai
quật dưới lòng đất tại làng Võ cạnh Nha Trang khám phá ra một văn bia (khắc chữ
trên phiến đá Granit) bằng Phạm ngữ (Snskrit) có niên đại vào cuối thế kỷ thứ
II sau công nguyên. Trên văn bia ấy có ghi rõ công trạng của một vị vua
Sri-Mara, người đã khai sáng ra một triều đại Vương Quốc Champa đầu tiên. Ðối
chiếu với sách Thủy Kinh chú Trung Hoa đã nói ở đoạn trên, ta thấy sử liệu của
Trung Hoa và bia ký đã khai quật được hoàn toàn giống nhau về không gian và thời
gian lập quốc.Nhân vật Sri-Mara chính là Khu Liên.Trên văn bia Phạm ngữ của SambhuVarman (Phạm Phàn Chí) vào thế kỷ thứ XI có khắc tên một quốc gia cổ mà trong sách Tân đường Thư có đề cập đến Âu Dương Tu,Tổng kỳ đã phiên âm ra Hán ngữ là Chiêm Bà tức Champa ngày xưa.Người champa xuất thân từ người tiền thân nam đảo cổ Malayo Polynésien ,tiền thân của tộc người nam đảo ngày nay,sống trên dãi bờ biển trải dài bắc: từ đảo hải nam trung quốc, nam:bà rịa-vũng tàu ngày nay.Đông giáp biển champa( biển đông), tây giáp tây lào. Người champa định cư trên dãi đất này từ đầu những năm 2000 trước công nguyên.Tài liệu chính xác nhất là những gì còn lại của nền văn hóa sa huỳnh. Từ thông tin đầu tiên trong Niên giám 1909 của tập san Trường Viễn Đông bác cổ về việc phát hiện “một kho chum khoảng 200 chiếc nằm cách mặt đất không sâu, trong một cồn cát ven vùng biển Sa Huỳnh” (huyện Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi), đến nay hàng trăm di tích của nền văn hóa này đã được tìm thấy khắp các tỉnh ven biển miền Trung từ Thừa Thiên Huế đến Bình Thuận. Diện mạo của văn hóa Sa Huỳnh, từ nguồn gốc đến các giai đoạn phát triển, từ loại hình di tích di vật đến đặc trưng văn hóa… ngày càng rõ nét .Suốt 100 năm qua là một cuộc tìm kiếm không mệt mỏi của các nhà khảo cổ, các nhà nghiên cứu về một nền văn minh cách chúng ta hàng nghìn năm. M.Vinet - một nhà khảo cổ người Pháp - phát hiện những mộ chum đầu tiên vào năm 1909 và cũng là nơi xuất hiện những hiện vật có niên đại sớm nhất của văn hóa Sa Huỳnh.
Thật ra thuật ngữ “văn hóa Sa Huỳnh” không phải có ngay sau khi ông M.Vinet phát hiện khu mộ chum này mà phải đợi một thời gian dài sau đó, khi bà La Barre - vợ một viên thuế quan Pháp ở Sa Huỳnh - vốn ham thích trang sức đá quý và thủy tinh trong chum nên đã huy động dân đào khu mộ chum ở Phú Khương và Thạnh Đức, mỗi nơi thu được 120 chiếc.Đến năm 1934, một nhà khảo cổ học khác tên M.Colani tiếp tục mở rộng không gian ra các vùng lân cận như Phú Lu, Đồng Phú (Quảng Ngãi), Tăng Long, Phú Nhuận (Bình Định). Hàng trăm mộ chum tương tự cũng được phát hiện qua đợt khai quật này. Năm 1935, bà M.Colani đã công bố những phát hiện của mình cùng các đồng nghiệp trước đó tại một cuộc hội nghị tiền sử Viễn Đông ở
Báo cáo của M.Colani lập tức thu hút sự chú ý của các nhà khảo cổ. Cái tên Sa Huỳnh cùng thuật ngữ “văn hóa Sa Huỳnh” bắt đầu hình thành và liên tục mời gọi tất cả giới khảo cổ. Tuy nhiên, hai cuộc chiến tranh suốt 30 năm sau đó đã không cho phép họ thực hiện ý định của mình mà phải đợi đến sau ngày giải phóng miền Nam, các nhà khảo cổ VN mới làm tiếp những dang dở trước đó .Nền văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung được giới khảo cổ phát hiện từ hơn nhiều năm trước.10 nhà khoa học Đức - Việt tiến hành khai quật di chỉ Lai Nghi ở Điện Bàn, Quảng Nam. Kết quả lần này cùng với hai đợt tiến hành năm trước đã cho ra bức tranh văn hóa Sa Huỳnh chi tiết hơn.Từ trước năm 1975, các nhà khoa học đã phát hiện ở vùng Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) một di chỉ chứng minh tại đây đã từng tồn tại một nền văn hóa phát triển đồng thời với văn hóa Đông Sơn ở phía Bắc và văn hóa Óc Eo ở miền Nam, có niên đại cách đây ít nhất 2.400-3.000 năm. Di vật tìm thấy là đồ tùy táng chôn theo người chết được hỏa táng, đặt trong các mộ chum bằng đất nung và chưa xác định được chủ nhân, vì vậy giới khảo cổ tạm gọi đó là nền văn hóa Sa Huỳnh. Do hầu hết các di chỉ đều là mộ táng, lại tập trung ở vùng duyên hải nên giới nghiên cứu đoán định rằng chủ nhân của chúng cư trú tại các hòn đảo trên Thái Bình Dương, có tục hỏa táng và chôn ở đất liền.
Do hoàn cảnh chiến tranh, những phát hiện về văn hóa Sa Huỳnh cũng chỉ dừng lại đó. Riêng tại Quảng
A. Reinecke nhận định "chưa có gì xác nhận
có một mối liên hệ giữa văn hóa Sa Huỳnh muộn với văn hóa Chăm Pa sớm, nhưng khả
năng đã có một bộ phận cư dân văn hóa Sa Huỳnh tiếp tục sống và phát triển
trong văn hóa Champa. Bây giờ chúng tôi chưa có điều kiện so sánh giữa hai nền
văn hóa này. Song có một điều chắn chắn là, qua sự tương đồng của một số hiện vật
tìm thấy tại đây với di chỉ tại một số hòn đảo trên vùng biển Đông Nam Á (ví dụ
khuyên tai ba mấu và hai đầu thú) thì 2.500 năm trước đã có cư dân từ đó đến miền
Trung Việt Nam.
Tuy vậy phát hiện trong đợt khai quật khảo cổ này hầu hết là di chỉ mộ táng có
niên đại từ thế kỷ 2 trước Công nguyên đến 300 năm sau Công nguyên. Có 3 di chỉ
cư trú, nhưng chưa có niên đại chắc chắn, do vậy chưa thể coi đó là của văn hóa
Sa Huỳnh. Có thể thời kỳ này người ta làm nhà bằng tranh tre, gỗ nên không để lại
vết tích. Quan trọng hơn cả là qua những hiện vật tìm được có thể nói rằng
trong thời kỳ này, Hội An đã là một trung tâm kinh tế lớn thu hút từ vùng núi dọc
sông Thu Bồn, xuống duyên hải, từ văn hóa Đông Sơn và từ Trung Hoa đến Ấn Độ".Văn
hóa Sa Huỳnh phát triển từ sơ kỳ đồng thau đến sơ kỳ đồ sắt, từ khoảng 2000 năm
đến những thế kỷ trước Công nguyên. Quá trình hội tụ những nguồn gốc khác nhau
đã tiến tới giai đoạn phát triển cực thịnh của văn hóa này vào khoảng 2.500 –
2.000 năm cách ngày nay. Chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh có quan hệ cội nguồn với
các văn hóa hậu kỳ đá mới – sơ kỳ đồng thau ven biển được
coi là những người Tiền Mã Lai - Đa đảo (Proto Malayo Polynesien). Trong quá
trình hình thành văn hóa Sa Huỳnh có những liên hệ với những nhóm cư dân cùng
thời là những người “Tiền Môn – Khmer” hay Tiền Nam Á. Ngoài ra suốt quá trình
phát triển văn hóa này còn có nhiều mối quan hệ giao lưu rộng rãi với những văn
hóa thời kim khí ở Đông Nam Á. Qua đó có thể thấy chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh nói
tiếng Nam Đảo hay Malayo Polynesien nhiều hơn yếu tố Nam Á.Đặc trưng cơ bản của
văn hóa Sa Huỳnh là táng thức mộ chum, vò suốt từ giai đoạn sớm đến muộn, tuy ở
một vài địa điểm vẫn có sự hiện diện của mộ huyệt đất.
Các khu mộ phân bố tập trung ở những cồn cát ven
biển, lan dần ra các đảo ven bờ, ngoài ra còn phân bố ở vùng đồng bằng và miền
núi phía tây. Di tích là những khu mộ táng rộng lớn gồm hàng chục, hàng trăm
chum, vò gốm chôn đứng trong địa tầng. Loại hình chum, vò chủ yếu hình trụ,
hình trứng, hình cầu đáy bằng có nắp đậy hình nón cụt hay hình lồng bàn. Đặc biệt
trong các mộ táng chum, vò thuộc văn hóa Sa Huỳnh ít tìm thấy di cốt hay than
tro hỏa táng, vì vậy theo các nhà nghiên cứu táng tục của cư dân Sa Huỳnh có thể
là “chôn tượng trưng”. Trong chum/vò chứa nhiều đồ tùy táng gồm các chất liệu đá,
gốm, sắt, đá quý, thủy tinh rất đa dạng về loại hình: công cụ lao động, vũ khí,
đồ dùng sinh hoạt, trang sức… Đặc trưng về di vật là sự phổ biến của công cụ
lao động bằng sắt, đồ gốm tô màu trang trí nhiều đồ án hoa văn khắc vạch, đồ
trang sức bằng đá ngọc, mã não, thủy tinh vòng, hạt chuỗi, khuyên tai ba mấu,khuyên
tai hai đầu thú…
Chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh có nền kinh tế đa
thành phần, gồm trồng trọt trên nương rẫy và khai thác sản phẩm rừng núi, trồng
lúa ở đồng bằng, phát triển các nghề thủ công, đánh bắt cá ven biển và trao đổi
buôn bán với những tộc người trong khu vực Đông Nam Á và xa hơn, với Trung Quốc
và Ấn Độ. Những di tích văn hóa Sa Huỳnh ven biển đã có thể từng là những “tiền
cảng thị” (như khu vực Hội An với di tích Hậu Xá chẳng hạn). Dù rằng việc sản
xuất gốm để xuất khẩu ở Đông Nam Á ,đặc biệt là ở Đại Việt và Xiêm, phát triển
khá mạnh mẽ vào thế kỷ XIV – XV, thường là với sự khởi đầu bất ngờ của kỹ thuật
Trung Quốc và kết thúc với kỹ thuật bản địa. Tuy nhiên, lịch sử hải thương
của khu vực Đông Nam Á, kết hợp với những kết quả trong nghiên cứu khảo cổ học ở
các quốc gia Đông Nam Á trong thời gian gần đây, đã phần nào bổ sung cho chúng
ta những tư liệu quan trọng về sự xuất hiện của những sản phẩm gốm thương mại
có nguồn gốc Đông Nam Á . Về đồ gốm thì hầu như tất cả các ghi chép về Champa
trong Chufanchi (1225), Dauyi Zhilue (giữa thế kỷ XIV) và Yingua Shenglan
(1416) đều chỉ nói đến việc nhập các đồ sứ Trung Quốc. Những tài liệu trên hầu
như không nhắc đến những sản phẩm gốm ở Đông Nam Á.Lệnh cấm hoàn toàn các chuyến
đi và buôn bán vải hải ngoại được ban hành năm 1371 (năm thứ 3 niên hiệu Hồng
Vũ) trong thời kỳ đầu thời nhà Minh. Sau đó, nó lại được tái ban hành vài lần
và cuối cùng bị bãi bỏ năm 1471 (năm thứ 6 niên hiệu Long Khánh). Nó ngăn cấm
nghiêm ngặt những chuyến đi và buôn bán hải ngoại của người Trung Quốc. Kết quả
là, buôn bán gốm từ Trung Quốc bị hạn chế lớn trong thời kỳ này. Gốm Thái Lan,
Việt Nam và
Champa xuất hiện ở các vùng bờ biển xung quanh biển nam Trung Quốc như để thay thế đồ gốm Trung Quốc. Di chỉ tiêu
biểu của thời kỳ này là tàu đắm ngoài khơi đảo Palawan ,
được khai quật năm 1995. Đồ gốm Champa bao gồm đĩa celadon, bát men nâu với
thân chiết yêu và các vò men nâu của lò Gò Sành.Trong những năm gần đây, tại
các lò gốm Gò Sành và một vài lò gốm khác, tất cả đều ở quanh thủ đô Vijaya thuộc
tỉnh Bình Định ngày nay, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những đồ gốm xuất
khẩu như đĩa men và bát men celadon và các hũ sành được sản xuất trong những thế
kỷ XIV-XVII mà không hề có sự phát triển trước đó của kỹ thuật bản địa. Những mảnh
vỡ của đồ gốm Gò Sành đã được khai quật thấy ở Ai Cập, đảo Tioman ở Ma-lai-xia;
Santa Ana và Calatagan ở Phi-lip-pin… và thường được tìm thấy cùng với những đồ
sứ Trung Quốc. Có tiếng vang nhất là việc tìm thấy hàng trăm đồ gốm tráng men
celadon của Gò Sành trong con tàu đắm gần hòn đảo Pandaran ở Phi-lip-pin. Không
nghi ngờ gì nữa, những sản phẩm này bắt đầu có trước khi Đại Việt đánh chiếm
Vijaya, thế nhưng những người thợ thủ công thuộc tộc người nào thì còn chưa rõ.
Chắc hẳn Champa cũng đã bị cuốn vào trào lưu sản xuất đồ gốm thương mại chung ở
Đông Nam Á lục địa vào thời kỳ cuối Nguyên (1260-1368) và đầu Minh (1368-1644),
khi mà việc xuất khẩu đồ sứ Trung Quốc bị giảm mạnh vì khủng hoảng kinh tế và do lệnh cấm buôn
bán với nước ngoài.Với việc phân phối rộng khắp bằng đường biển qua Ấn Độ
Dương, đồ gốm Champa được khai quật từ địa điểm A1-Từ trên bán đảo Sinai ở Hy Lạp,
từ thành phố cảng thời trung cổ của Julfar trong phạm vi của Ras al -Khaimab ở
tiểu vương quốc Arập, từ di chỉ Juara trên đảo Tioman ở đảo Ma-lai-xia và từ di
chỉ mộ táng ở bán đảo Calatagan và tàu đắm ở ngoài biển khơi của đảo Pandanan, Phi-lip-pin. Đồ gốm Champa được
xuất khẩu ra nước ngoài vào khoảng thế kỷ XV và việc sản xuất đồ gốm ở Gò Sành
phát triển rất rực rỡ vào thời gian ấy. Trong bất kỳ trường hợp nào, thì rõ
ràng là kinh đô Champa đã có một mạng lưới buôn bán vào thế kỷ XV, bao gồm cả
Hy Lạp, Các Tiểu vương quốc Arập, Ma-lai-xia, quần đảo Phi-lip-pin.Thực tế này
đã xác nhận sự rộng lớn của mạng lưới buôn bán của VQ Champa trên biển.Đồ gốm không giống với vải lụa,
vẫn tồn tại trong các di chỉ mà không bị phân hủy và biến mất, thậm chí ngay cả
khi chúng bị vỡ thành từng mảnh nhỏ. Khi các khu vực (lò) và niên đại sản xuất
của một số đồ gốm khai quật đã được xác định, chúng sẽ là tư liệu quý giá để
làm rõ niên đại và đặc trưng của chính các di chỉNằm ở vị trí trung độ trên con
đường giao lưu quốc tế đông-tây, Trung Quốc với Ấn Độ và xa hơn, tới Địa Trung
Hải, Đông Nam Á sớm trở thành một đầu mối mậu dịch hàng hải quốc tế. Từ đầu
công nguyên, những con thuyền của cư dân trong vùng, thuyền của người Ấn, người
Hoa cùng với nền văn hóa của họ đã thường xuyên qua lại vùng Đông Nam Á. Trên
con đường giao lưu đó, Champa chiếm lĩnh một trong những vị trí quan trọng và
thuận lợi nhất. Các cảng của Champa đóng vai trò như những cảng cuối cùng trước
khi những con thuyền vượt qua vịnh Bắc Bộ vào vùng biển Trung Hoa và là nơi dừng
chân đầu tiên khi từ Trung Quốc đến Malacca, Vịnh Thái Lan hay gần hơn là tới
vùng hạ lưu châu thổ sông Mê Kông mà 7 thế kỷ đầu công nguyên thuộc vương quốc
Phù Nam. Có thể thấy hầu hết các tuyến đường biển đến Trung Hoa hay từ Trung
Hoa đi qua Ấn Độ đều rẽ qua các cảng biển Champa. Từ một đầu mối giao thông quan trọng, bờ biển
Champa đã sớm trở thành một đầu mối giao thương, nơi trao đổi sản vật và sản phẩm
với những thuyền bạn bè qua lại. Champa hùng mạnh nhất vào khoàng năm 800 đến
năm 1000. Trong khoảng thời điểm đó, Người Chăm rất nổi tiếng trong việc buôn
bán các loại gia vị và tơ lụa với các nước như Trung Quốc, Nusantara (
Indonesia, Malaysia, brunei…ngày nay) và nước Abbasiah ở Baghdad (Bát Đa- xứ
1001 đêm).Vào khoảng năm 800, người Chăm được biết đến với tài đi biển rất gỏi
và những thương nhân tài ba. Theo ông Tan Sri Prof. Emeritus Dr. Ismail Hussein, chủ
tịch hội nhà văn Malaysia gọi tắt là (GAPENA) có nói. Vùng biển mà ngày nay được
gọi là Biển Nam Trung Quốc thật sự trước kia được gọi là Biển Champa, nó từng
là một vùng thương mại và vận chuyển quan trọng của người Chăm. Sự hùng cường về
thương mại và vận chuyển của đế chế Champa nhanh chóng được nổi tiếng và rất
nhiều người biết đến không chỉ ở Nusantara mà là toàn thể thế giới lúc bấy giờ,
dẫn đến vùng biển này được gọi với tên Biển Champa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét