Thứ Hai, 6 tháng 8, 2012

GÓP PHẦN TÌM HIỂU SỰ BIẾN THỂ CỦA HỒI GIÁO TRONG VĂN HÓA CHĂMPA


GÓP PHẦN TÌM HIỂU SỰ BIẾN THỂ CỦA HỒI GIÁO TRONG VĂN HÓA CHĂMPA


Đỗ Văn Khoa
Tôn giáo và Văn hoá là hai vấn đề rất rộng nhưng lại có mối liên hệ mật thiết với nhau. Tại các nước Đông Nam Á, vai trò của tôn giáo ảnh hưởng rất lớn trong đời sống xã hội, hầu hết các tôn giáo lớn trên thế giới đều có mặt tại khu vực này, nhưng khi các tôn giáo ấy du nhập vào lại khúc xạ dưới tác động của văn hoá khu vực và văn hoá của từng quốc gia.
Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, về mặt văn hoá chịu ảnh hưởng trực tiếp văn hoá khu vực, vị trí địa lý của Việt Nam rất thuận lợi trong việc giao lưu, tiếp kiến văn hoá, rất nhiều các học thuyết và các tôn giáo lớn được truyền bá vào đây. Nhưng khi tiếp thu các tôn giáo ấy, cư dân địa phương đã bản địa hoá nó trở thành một nét đặc trưng riêng của dân tộc. Hồi giáo (Islam) là một điển hình. Hồi giáo là một tôn giáo lớn, có số lượng tín đồ đông nhất trên thế giới. Hiện nay sự phát triển của Hồi giáo có nhiều diễn biến phức tạp, nhiều thế lực chính trị lợi dụng tôn giáo này để mưu cầu lợi ích cho mình. Trong khuôn khổ đề tài này tôi muốn tìm hiểu về Hồi giáo và sự biến đổi của nó trong văn hoá Chăm pa cũng nhưng sự ảnh hưởng của nó đối với văn hoá Chăm pa..
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ HỒI GIÁO
  1. Quá trình hình thành và phát triển
    1. Quá trình hình thành
Hồi giáo (tôn giáo của tộc người Hồi) là cách gọi của người Trung Quốc xuất phát từ tộc người Hồi Hột, tên nguyên thuỷ là đạo Islam (theo tiếng Ảrập nghĩa là phục tùng theo ý chân chủ) xuất hiện ở bán đảo Ảrập vào khoảng thế kỷ thứ VII. Ảrập Xêut là quê hương của Hồi giáo. Hồi giáo ra đời do hàng loạt nguyên nhân kinh tế, xã hội, tư tưởng gắn liền với sự chuyển biến từ chế độ công xã nguyên thủy sang xã hội có giai cấp của các tộc người ở vùng Trung cận Đông và yêu cầu thống nhất các bộ lạc trong bán đảo Ảrập thành một nhà nước phong kiến thần quyền, do đó cần một tôn giáo độc thần để thay thế những tôn giáo đa thần tồn tại ở đó từ trước.
  1. Quá trình phát triển
Sự ra đời của Hồi giáo gắn liền với tên tuổi một người nổi tiếng là giáo chủ Mohammed (Mahomet). Mâohammed (570 – 632) là một người thuộc gia tộc Casimu ở Mecca.
Tục truyền rằng khi Mohammed được 40 tuổi (năm 610) ông một mình vào trong một hang nhỏ ớ núi Xira, ngoại thành Mecca để tu luyện và trầm ngâm suy tưởng. Trong một đêm thánh Allah (Ala – Chân chủ) đã cử thiên sứ Gabrien đến truyền đạt Thần dụ và lần đầu tiên “khải thị” cho ông chân lý của Kinh Coran khiến ông trở thành “Thánh thụ mệnh” và ông tự xưng là đã tiếp thụ sứ mệnh của chân chủ trao cho và bắt đầu truyền đạo. Đầu tiên ông bí mật truyền giáo trong số những bạn bè thân thiết và họ trở thành những tín đồ đầu tiên, về sau sự truyền đạo trở nên công khai, đối tượng mở rọâng tới quần chúng ở Mecca nhưng bị giới quý tộc đả kích và bức hại. Môhamet đã trốn được đến Yathrib (sau đổi thành Madinah - Thành phố tiên tri). Nơi đây ông phát động và tổ chức quần chúng đấu tranh và cuộc cách mạng của ông giành được thắng lợi. Sau đó ông tổ chức vũ trang cho các tín đồ (Muslim) và dùng khẩu hiệu “Chiến đấu vì Allah” và đè bẹp được giới quý tộc ở Mecca.
Cùng với việc mở rộng phạm vi truyền đạo Mohamet còn liên minh với các bộ tộc và dùng sức mạnh buộc các thế lực còn lại phải quy thuận theo Hồi giáo. Có thể nói cuộc cách mạng do Mohammed lãnh đạo là một cuộc cách mạng tôn giáo và cải cách xã hội kết hợp với nhau. Sự ra đời của Hồi giáo đã mở ra một thời kỳ lịch sử mới thống nhất trên bán đảo Ảrập.
Sau khi Mohamet mất đi, ông không có con trai để kế vị nên nội bộ Hồi giáo chia rẽ, các cuộc thanh toán tranh dành quyền lực diễn ra. Lúc bấy giờ không còn chức danh giáo chủ mà đứng đầu là các Kha – líp. đến thời A – Bu – Bắc và U – Than, các Kha – líp này chủ trương cứu chuộc thế giới bằng kinh Coran. Lúc bấy giờ lá cờ xanh của đạo Hồi lan truyền đến Ấn Độ, Tây Âu và Châu Phi.
Hiện nay trên thế giới có khoảng 900 triệu tín đồ Hồi giáo chia làm 2 giáo phái chính là Suni và Xiai, có mặt ở hơn 50 quốc gia trên khắp các châu lục nhưng tập trung chủ yếu ở các nước Ảrập (trừ Li băng và Ixraen) và chiếm đại đa số ở các nước như Iran, Irắc, Pakistan, Apganistan, Thổ Nhĩ Kỳ… và một số nước vùng Trung Á và cả ở Đông nam Á (chủ yếu ở Inđonesia). Một số quốc gia tự coi mình là quốc gia Hồi giáo. Tuy nhiên Hồi giáo ở các quốc gia khác nhau nên đã phân chia thành các hệ phái khác nhau nhưng về cơ bản không đối lập nhau.
  1. Nội dung cơ bản của Hồi giáo
1.2.1. Giáo lý của Hồi giáo
Đặc điểm giáo lý của Hồi giáo là rất đơn giản nhưng luật lệ và lễ nghi rất phức tạp và nghiêm khắc thậm chí đến mức khắt khe và nhiều khi nó vượt ra khỏi phạm vi tôn giáo và trở thành một chuẩn mực pháp lý của xã hội. Trong Hồi giáo khó thấy ranh giới giữa cái thiêng và cái tục.
Giáo lý cơ bản của Hồi giáo là Kinh Coran (Coran theo nguyên nghĩa tiếng Ảrập là “tụng đọc”) vì đó là những lời nói của Môhamet được ghi lại và những lời này do thánh Allah thông qua thiên sứ Gabrien “khải thị” cho Mohammed. Kinh Coran tổng cộng có 30 quyển, 114 chương hơn 6200 tiết (là những đoạn thơ). Nội dung Kinh Coran vô cùng phong phú đại thể bao gồm những tín ngưỡng cơ bản và chế độ tôn giáo của đạo Hồi và những ghi chép về tình hình xã hội trên bán đảo Ảrập đương thời cùng với những chính sách về chủ trương xã hội, quy phạm luân lý đạo đức… Giáo lý Hồi giáo gồm các điểm cơ bản sau:
+ Allah là đấng tối cao sinh ra trời đất.
+ Allah là đấng tối cao sinh ra muôn loài trong đó có con người.
+ Con người là bình đẳng trước Allah nhưng số phận và tài năng tạo nên sự khác nhau giữa những con người .
+ Số phận con người có tính định mệnh và do Allah sắp đăït.
+ Tín đồ Hồi giáo phải luôn có thái độ đúng: trong cộng đồng (Hồi giáo) thì phải kiên nhẫn chịu đựng, phục tùng Allah, đối với người ngoài thì phải kiên quyết bảo vệ mọi lợi ích của Hồi giáo và phải có tinh thần thánh chiến.
+ Về y lý: khuyên bảo con người phải giữ gìn sức khỏe.
+ Những lời khuyên về đạo lý:
* Tôn thờ thần cao nhất là Allah.
* Sống nhân từ độ lượng.
* Thưởng phạt công minh, trừng phạt chủ yếu đối với kẻ thù.
* Thánh chiến là thiêng liêng và bắt buộc.
* Kiên định và nhẫn nại trong mọi thử thách.
* Tin vào định mệnh và sự công minh của Allah.
* Cấm một số thức ăn: thịt heo, rượu bia và các chất có men. (Heo là con vật gắn với khởi nguyên: phát triển là nhờ chăn nuôi).
* Trung thực.
* Không tham của trộm cắp
* Làm lễ và tuân thủ các nghi lễ Hồi giáo.
1.2.2. Tín ngưỡng Hồi giáo
Xét về niềm tin, tín đồ Hồi giáo tin vào Alah, sứ giả Mohammed, thiên sứ, thiên kinh, hậu thế.
- Tin vào Alah: Đây là một nội dung quan trọng của tín điều cơ bản. Theo Hồi giáo, Alah là vị thần duy nhất trong vũ trụ, tự sinh ra và bất tử. Alah sáng tạo thế giới, và là chúa tể. Hồi giáo không thờ ảnh tượng của Alah vì họ quan niệm Alah toả khắp nơi, không một hình tượng nào đủ để thể hiện Alah.
- Tin vào sứ giả Mohammed: Giáo lý Hồi giáo cho rằng Allah từng cử nhiều sứ giả đến các dân tộc khác nhau trong những thời kỳ nhất định để truyền đạt ngôn luận của Allah cho con người. Có đến 5 sứ giả. Trong đó Mohammed là sứ giả cuối cùng mà Allah chọn lựa. Đây cũng là sứ giả xuất sắc nhất. Chỉ có Mohammed là được nhận những ngôn luận của Allah một cách đầy đủ nhất.
- Tin Thiên kinh: Allah từng trao thiên kinh cho các sứ giả trước Mohammedû, mỗi người một bộ. Nhưng những bộ ấy không đầy đủ, bị thất lạc hoặc bị người đời sau giải thích sai lệch. Chỉ có bộ thiên kinh mà Allah truyền cho Mohammed là bộ kinh điển cuối cùng nhưng đầy đủ nhất. Đó là kinh Coran. Vì vậy, kinh Coran dưới mắt người Hồi giáo làø bộ kinh điển thần thánh duy nhất.
- Tin vào Thiên sứ: Thiên sứ do Allah tạo ra, là một loại linh hồn, vô hình trước con người, không có tính thần. Mỗi thiên sứ có một nhiệm vụ. Trong Thiên sứ cũng có sự phân chia cao thấp. Cao nhất là thiên sứ Gabrien. Con người không phải phủ phục trước thiên sứ.
- Tin vào hậu thế: Sẽ có ngày tận thế. Trong ngày ấy, mọi sinh linh sẽ kết thúc để rồi tất cả sống lại nhận sự phán xét của Allah. Dựa vào hành vi của mỗi người mà Allah quyết định: thiên đường dành cho người thiện, địa ngục là nơi của kẻ ác.
1.2.3. Nghĩa vụ Hồi giáo 
Hệ thống nghĩa vụ của tín đồ Hồi giáo rất rộng và chi tiết, dựa trên cơ sở kinh Coran và sách Thánh huấn.
Các tín đồ có 5 nghĩa vụ chủ yếu. Đó là niệm, lễ, trai, khoá, triều. Đây là 5 trụ cột của Hồi giáo, tạo nên sườn cốt cho đời sống của người Hồi giáo.
- Niệm: tín đồ phải thường xuyên tụng niệm thành tiếng tín điều cơ bản (Vạn vật không phải là Chúa, chỉ có Chân chúa; Mohammed là sứ giả của Chúa).
- Lễ: tức là lễ bái. Các tín đồ mỗi ngày hành lễ 5 lần (sáng, trưa, chiều, tối, đêm). Thứ 6 hàng tuần thì làm lễ tại thánh đường 1 lần vào buổi trưa. Trước khi làm lễ, tín đồ phải rửa mặt, tay chân, quỳ xuống, hướng về đền Kabah để cầu nguyện.
- Trai: tức là trai giới. Tháng 9 theo lịch Hồi là tháng trai giới của Hồi giáo. Trong tháng này mọi tín đồ không ăn uống, quan hệ tính dục từ khi mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn, trừ một số trường hợp đặc biệt. Kết thúc tháng này là lễ Phá bỏ sự nhịn đói, các tín đồ sẽ cùng nhau cầu nguyện, sau đó tặng quà cho nhau, và bố thí.
- Khoá: các tín đồ có nghĩa vụ đóng góp cho các hoạt động từ thiện. Sự đóng góp đó có thể là tự nguyện, nhưng cũng có khi là bắt buộc dựa vào tài sản của tín đồ (khoảng 1/40 tài sản).
- Triều: Các tín đồ có nghĩa vụ hành hương về Mecca ít nhất 1 lần trong cuộc đời, để triều bái Kabah trong tháng 12 theo lịch Hồi (hành hương Haji). Cuộc lễ triều bái kéo dài trong 10 ngày. Ngày cuối cùng tín đồ sẽ hiến lễ là một con cừu hoặc lạc đà, hoặc một con vật có sừng. Triều bái Mecca trong dịp này là chính triều. Còn phó triều thì diễn ra trong thời gian bất kỳ của năm và ít nghi lễ hơn.
Ngoài ra, Hồi giáo còn có nhiều quy định cụ thể về hành vi của tín đồ trong các mối quan hệ xã hội.
1.2.4. Tổ chức Hồi giáo
1.2.4.1. Thánh đường

Thánh đường Hồi giáo là nơi sinh hoạt tập thể và có tính thiêng với các tín đồ. Thánh đường gồm có Đại Thánh đường và Tiểu Thánh đường. Trong Thánh đường có bài trí đơn giản, không bàn ghế, không có đồ thờ quý hay nhạc cụ, chỉ có chiếc gậy mà theo truyền thuyết là của giáo chủ Môhammet đã dùng nó để đi truyền đạo.
1.2.4.2. Hệ thống chức sắc
Hệ thống chức sắc gồm có Giáo chủ (Mufty), phó giáo chủ (Naib Mufty), Giáo cả (Ha Kim), phó giáo cả (Naib Ha Kim), Imân, Khatib, Tuan, Bilat, Slak, HaDji.

CHƯƠNG 2 : HỒI GIÁO VÀ BIẾN THỂ TRONG VĂN HOÁ CHĂM PA
2.1. Quá trình du nhập Hồi giáo
Tộc người Chăm vốn sinh sống lâu đời ở dãi đất miền Trung Việt Nam,  từ thế kỷ đầu công nguyên, cho đến thế kỷ thứ XVII, người Chăm đã xây dựng một vương quốc Chăm Pa phồn thịnh, đã kiến tạo nên một nền văn hoá rất rực rỡ. Một trong những nét đặc sắc nhất trong văn hoá Chăm chính là tín ngưỡng, tôn giáo. Tín ngưỡng dân gian xưa của người Chăm là tín ngưỡng vật linh (animism) và tính ngưỡng đa thần (politheism).
Bắt đầu từ những năm đầu công nguyên, người Ấn Độ đã đến Việt Nam thông qua con dường thương mại, khu vực giao thương chủ yếu của họ đó là dãi đất ven biển Miền Trung
. Họ đến mang theo cả Bà – La – Môn giáo và Ấn Độ giáo. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi tín ngưỡng người Chăm chịu ảnh hưởng nhiều của người Ấn Độ. Ấn Độ giáo có vai trò rất quan trọng trong tín ngưỡng truyền thống của người Chăm.  Ấn độ giáo ở Chăm Pa chủ yếu là Si-va giáo, tức là đạo thờ thần Shiva, và có ảnh hưởng của các yếu tố tôn giáo bản địa như thờ nữ thần Đất Yan Po Nagar. Biểu tượng chính của tôn giáo Si-va của người Chăm là linga, mukhalinga, jatalinga, linga chia tầng và kosa
Đạo Hồi du nhập vào Việt Nam vào khoảng thế kỷ X – XIV bằng con đường hòa bình cùng với quá trình tan rã của quốc gia Chiêm Thành (Chămpa) và sự suy giảm dần của đạo Hinđu - tôn giáo chính thống của người Chăm. Hiện nay vấn đề thời điểm cụ thể Hồi giáo vào Việt Nam vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau.
- Theo kết quả nghiên cứu của một số nhà nghiên cứu văn hóa Chăm thì khoảng từ thế kỷ X trở đi, vương quốc Chăm với sự phát triển khá mạnh về hàng hải nên đã có sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa và buôn bán với người Indonesia và Malaysia là những nước đã có đạo Hồi lan rộng. Do tình hình chiến tranh liên miên và thất bại, vương triều dần suy yếu và niềm tin vào đạo Hinđu dần giảm sút nên đạo Hồi đã bám rễ được vào một bộ phận người Chăm.
Hồi giáo ở Việt Nam hiện nay
2.2. Biến thể Hồi giáo Bàni trong văn hoá Chăm Pa
2.2.1. Hệ thống thần linh và hệ thống giáo luật

Từ tín ngưỡng đa thần của Bàlamôn giáo, người Chăm Bàni chuyển sang tín ngưỡng nhất thần, chỉ thờ phụng thánh Ala và thiên sứ Môhamet. Tuy nhiên, trong tiềm thức của người Chăm Bàni vẫn sâu đậm quan niệm đa thần, thể hiện trong việc tham gia vào các nghi lễ mang tính chất nông nghiệp như lễ hội Rija nưgar, lễ hội Kaplau krong, Plao Pasah.... Các thầy Char vẫn làm chủ một số nghi lễ cộng đồng quan trọng. Người Chăm Bàni ngoài việc cầu nguyện Pô Âu lóa (Ala), vẫn cầu nguyện các thần linh từ xa xưa như các thần thiên nhiên: thần Mưa, thần Biển, thần Núi, thần Nước, thần Sông và một số nhân thần như Pôklongirai, Pôrômê, Pô Inư Nưgar…
Tôn giáo Bàni là Hồi giáo du nhập từ Indonesia, Malaysia từ lâu đời và cũng từ lâu, nó đã bị bản địa hóa khá đậm. Hồi giáo Bàni không có sự liên lạc với Hồi giáo quốc tế mà còn không chịu chấp nhận Hồi giáo mới. Vì vậy, hệ thống giáo lý giáo luật của tôn giáo Bàni hiện nay đã khác xa với hệ thống giáo lý giáo luật của Hồi giáo quốc tế. Tuy vậy, hệ thống giáo lý giáo luật của Bàni vẫn có một cái gốc chung là kinh Coran, ngoài ra còn có sách Sunna và Hadit hướng dẫn các tín đồ trong mọi ứng xử có tính thực tế mà chính Mohamet và các Kha - líp kế vị giảng giải. Các tu sỹ Bàni chỉ biết đến mỗi kinh Coran và kinh này cũng đã qua nhiều lần “dị bản”. Các tu sỹ đọc kinh nhưng không hiểu được nội dung. Chữ Ả Rập trong kinh Coran đã bị cải biến và chuyển sang nhiều thế hệ chữ Chăm nên ngày càng xa bản gốc. Việc tụng kinh, đọc kinh của các tu sỹ là chỉ làm sao phát âm cho đúng các câu kinh và những động tác thực hiện nghi lễ. Bên cạnh đó, do quan niệm sách kinh là sách thiêng nên không được lấy xuống đọc một cách tùy tiện để nghiên cứu, nghiền ngẫm. Chỉ vào những mùa chay Ramưvan, các tu sỹ mới mang kinh xuống để học.
2.2.1. Hệ thống nghi lễ, việc thờ cúng
Khác với Hồi giáo chính thống, tín đồ Bàni không làm lễ năm lần mỗi ngày. Ngày thánh lễ là vào thứ sáu hàng tuần và cũng chỉ tổ chức đơn giản vào một thời gian nhất định và mỗi năm chỉ có 9 tháng tổ chức ngày thánh lễ thứ sáu.
Tháng chay Ramưvan là thời gian quan trọng nhất của người Bàni, Nhưng người theo Bàni không phải nhịn ăn vào ban ngày như luật Hồi giáo quy định. Chỉ có các tu sỹ phải nhịn ăn ba ngày đầu của tháng Ramưvan mà thôi. Trong tháng Ramưvan, các tu sỹ phải tu ở thánh đường, không được về nhà và chỉ được ăn những lễ vật dâng cúng. Khi ăn cơm chỉ được dùng tay và chỉ ăn nửa bên phải. Tu sỹ phải tắm rửa sạch sẽ, ít nhất mỗi ngày một lần.
Tại thánh đường, vào đêm 27 của tháng Ramưvan diễn ra cuộc họp các thầy Char và các nhân sỹ trí thức, bô lão và những người có uy tín trong thôn và bầu ra một vị Mưtìn (mưdin). Vào rạng sáng ngày cuối tháng Ramưvan, các tu sỹ được ăn bữa cơm cuối cùng để làm lễ mãn tháng thụ thai. Thức ăn gồm cơm nấu với dừa, cá đuối, trứng.
Nghi lễ vòng đời của người Chăm Bàni ở Ninh Thuận có nhiều điểm khác biệt với các nghi lễ Hồi giáo thế giới, có sự pha trộn với tín ngưỡng bản địa và Bàlamôn giáo.
2.2.2.1. Lễ Karơh và lễ Katắt
Lễ Karơh (cấm phòng) được coi là quan trọng hơn và được tổ chức lớn hơn cho các thiếu nữ đến tuổi dậy thì (15 tuổi). Đây là lễ thức chuẩn bị cho con gái trưởng thành chuẩn bị bước vào hôn nhân, thường được tổ chức cho nhiều cô gái một lúc. Người ta dựng hai căn nhà tạm đối mặt nhau: Chiếc nhà lớn ở phía đông để làm lễ, chiếc nhỏ ở phía tây cho các cô gái vào cầm mình. Suốt đêm hôm trước, ông thầy Pôgrù và các thầy Imưm đọc kinh cầu nguyện trong căn nhà lớn. Các cô gái ngủ trong căn nhà nhỏ và được bốn bà già canh giữ không cho ra ngoài. Sáng hôm sau, các cô gái mặc lễ phục nhiều màu xanh đỏ, được một người đàn ông mặc đồ trắng và một bà già bồng trên tay một đứa bé chừng một tuổi hướng dẫn sang căn nhà lớn làm lễ. Các cô gái vào lần lượt từng người. Ông thầy cả đặt vào miệng cô gái một hạt muối, cắt một lọn tóc nhỏ trên đầu rồi cho uống nước. Chịu lễ xong, cô gái lại trở về căn nhà nhỏ tiếp tục cầm mình. Khoảng mười giờ sáng, các cô lại trở ra, lần này mặc áo dải trắng, lần lượt sang nhà lễ, lạy tạ ông Pôgrù và các thầy Imưm. Ông thầy Pôgrù sẽ đặt tên thánh cho các cô. Trong dịp này, các cô gái sẽ được cha mẹ, bạn bè, người thân tới tặng các loại của cải vật chất như đồ trang sức, quần áo, tiền bạc, thậm chí cả trâu bò, ruộng đất. Những tặng vật ấy được coi như là của cải hồi môn khi các cô cưới chồng về.
Lễ Katắt (cắt qui đầu) còn có ý nghĩa là lễ nhập đạo và để sau này có thể trở thành tu sỹ. Ngày nay, lễ cắt quy đầu chỉ mang tính tượng trưng. Nếu như người Chăm Ixlam An Giang coi trọng lễ Katắt cho con trai thì người Chăm Bàni Ninh Thuận lại coi trọng lễ Karơh cho con gái. Điều này thể hiện chế độ mẫu hệ còn rất đậm ở cộng đồng Chăm Ninh Thuận.
2.2.2.2. Tang lễ
Tang lễ người Chăm Bàni Ninh Thuận đơn giản, không phân biệt đẳng cấp, dòng họ nhưng cũng có nhiều nghi thức tang lễ khác nhau phân biệt bởi tuổi bị chết:
Loại lễ tang do một thầy Char làm lễ trong các lễ tang cho trẻ con, người chết không bình thường, chết khi còn là bào thai, phải chôn tạm rồi sau này mới được đưa vào nghĩa địa. Loại lễ tang có hai thầy Char dành cho trẻ chết dưới 10 tuổi nhưng được chôn vào nghĩa địa. Loại lễ tang do ba thầy Char làm lễ dành cho những người chết dưới 70 tuổi. Loại lễ tang do sáu thầy Char làm lễ dành cho những người chết trên 70 tuổi. Tang lễ này có nghi thức rửa tội. Loại lễ tang do 13 thầy Char làm lễ dành cho các tu sỹ và những người giàu có. Loại lễ tang do 17 thầy Char làm lễ dành cho những người chết là Pôgrù (thầy cả).
2.2.2.3. Cưới hỏi
Qui định của luật và giáo lý Hồi giáo buộc tín đồ Hồi giáo chung sống với nhau phải thông qua lễ cưới hỏi, cho nên người Chăm hồi giáo nào chung sống không thông qua lễ cưới hỏi thì họ gọi là “dì nà” là điều không tốt. Từ quan niệm giáo lý hôn nhân đóng một vai trò khá quan trọng trong đời sống người Chăm Hồi giáo, và có thể nói đó là tiêu chuẩn đầu tiên để làm thước đo chuẩn mực của một người hồi giáo. Người Chăm Hồi giáo Islam cũng như người Chăm Hồi giáo Bà Ni coi sự độc thân là một tội lỗi, nên trong gia đình thường gả con sớm.
Quan hệ nam nữ trước hôn nhân của người hồi giáo Bà Ni được quan niệm giống như của những người theo đạo Bà La Môn. Nghĩa là bước đầu của lễ thành hôn là một giai đoạn khó khăn, người ta thường dùng một danh từ có nhiều nghĩa đó là danh từ “pa luak pa noih” (dạm hỏi) để chỉ: thầm kín, cần nhiều tài khôn khéo, xã giao, hùng biện (dạm hỏi).
Cũng như người Chăm Bà La Môn, người Chăm Hồi Giáo Bà Ni quan niệm người con gái thuộc nội tộc, con gái là nội tướng, có bổn phận nội trợ, quản lý tài sản, phụng dưỡng cha mẹ, chăm sóc chồng con, thờ cúng tổ tiên v.v... Người con gái ngoài bổn phận làm mẹ, làm vợ còn cả tứ đức: Công, dung, ngôn, hạnh và rất hiếu khách.
2.2.2.4. Lễ Katê
Theo lịch Chăm, lễ hội Katê nhằm vào ngày 1.7. Năm nay, lễ hội chính rơi vào các ngày 28,29,30 tháng 9 dương lịch. Tuy Katê chỉ là lễ hội dành cho người Chăm theo đạo Bàlamôn, nhưng thực ra hậu duệ của Pô rô mê là người Chăm theo Bà ni ở khắp các palei Chăm Bàni vẫn hành hương lên tháp Pôrômê để hành lễ. Những năm gần đây, Katê không chỉ là lễ hội của riêng cộng đồng người Chăm Bàlamôn nữa mà đã cuốn hút các dân tộc, tôn giáo khác như người Chăm Bàni, người Kinh, người Hoa và các dân tộc sống cộng cư khác ở các vùng Chăm.
Ngày 1.7 (theo lịch Chăm) là ngày lễ hội chính. Từ sáng sớm, các chức sắc dẫn đầu đoàn người đi rước trang phục của nhân thần Pôklongirai từ đền Pôklongirai lên tháp Chàm Pôklongirai. Khi đi qua mỗi palei Chăm, đoàn người lại được bổ sung thêm, gần lên đến tháp, đoàn người đã có hàng ngàn người. Đi đầu là đoàn chức sắc Bàlamôn với cờ quạt võng lọng sặc sỡ rước kiệu trang phục. Tiếp đến là đoàn trai tráng người Raglai đóng khố, cởi trần, vừa đi vừa đánh mã la, thổi khèn bầu, theo sau là tốp vũ nữ Chăm vừa đi vừa múa quạt. Các phụ nữ Chăm trong trang phục truyền thống, đầu đội các mâm lễ vật lên tháp để cúng tế, tạo nên một quang cảnh lễ hội hoành tráng. Trước khi thực hiện các nghi lễ cúng tế của các thầy chủ lễ là màn biểu diễn múa lễ của người Raglai và người Chăm trước cửa tháp. Các nghi lễ như lễ mở cửa tháp, lễ tắm tượng, lễ mặc y phục cho thần Pôklongirai được các vị chức sắc Bàlamôn như OânKadhar, MukPajaau và Pôdhia (ông cả sư trụ trì tháp) thực hiện một cách trang nghiêm và thần bí. Các bài hát lễ được các vị chủ lễ hát trong tiếng đàn Kanhi và tiếng trống Paranưng thực sự là những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc. Kết thúc cuộc lễ là điệu múa thiêng của bà bóng. Trong khi bà bóng múa, bà con đi dự lễ cũng chúc tụng nhau và vui múa say sưa trong những điệu dân ca, dân vũ, trong nhịp trống ghi năng rộn rã, tiếng kèn saranai réo rắt. Bà con lần lượt bày mâm lễ vật của mình ra và dâng cúng, mọi người đi dự lễ cúng cầu sức khỏe, phúc lành, gặp nhiều may mắn trong thời gian tới. Tiếp theo là lễ tạ ơn, lễ ban ơn, sau cùng là lễ đóng cửa tháp.
Buổi sáng ngày hôm sau, mọi người làm lễ cúng ở làng, mỗi palei (làng) lại có một vị thần riêng của mình. Sau đó, ở các dòng họ, ở các gia đình tổ chức cúng riêng. Chủ lễ là chủ gia đình hoặc chủ họ (theo mẫu hệ). Vào ngày lễ, các thành viên trong gia đình từ khắp nơi tụ mặt đầy đủ, cầu mong thần linh, tổ tiên phù hộ cho thời tiết thuận lợi, làm ăn phát đạt, gặp nhiều điều tốt lành. Mọi người kéo nhau đi chúc tụng, thăm viếng nhộn nhịp. Các palei Chăm trong những ngày này rực rỡ, tràn ngập niềm vui với những cuộc thi đấu thể thao, thi dệt thổ cẩm, thi các trò chơi dân gian và biểu diễn văn nghệ. Cứ như thế, Katê kéo dài cả tháng. Vào những ngày lễ hội chính, lãnh đạo các cơ quan Đảng, chính quyền các cấp từ tỉnh đến huyện, xã, thôn đến các tháp dự lễ và đến các palei Chăm chúc Tết các vị chức sắc tôn giáo, chúc Tết các gia đình Chăm, coi đây như là ngày tết cổ truyền của đồng bào Chăm , khuyến khích bà con phát huy truyền thống cách mạng, bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc, tăng cường mối đoàn kết giữa các dân tộc, các tôn giáo để tạo nên sức mạnh trong công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc.
2.2.2.5. Lễ hội Ramưvan
Danh từ Ramưvan là danh từ đọc chệch (trại) ra từ gốc từ Ảrập “Ramadan”, có nghĩa là tháng 9 (Hồi lịch). Đây không chỉ là tháng chay niệm của người Chăm Awal (người Chăm Bàni) mà là của cả cộng đồng Hồi giáo trên thế giới. Nhưng cũng như các lễ tục khác, lễ Ramưvan của người Chăm Bàni (Hồi giáo đã bản địa hóa). Lễ hội Ramưvan của cộng đồng người Chăm Bàni năm nay bắt đầu từ ngày 13 tháng 9 dương lịch. Lễ Ramưvan diễn ra trong một tháng. Trước khi vào lễ chay niệm chính thức, người Chăm Bàni thường tổ chức lễ hội trong 3 ngày đầu.
            Phần “hội” chỉ mới xuất hiện vài chục năm gần đây với các hoạt động như bóng đá, bóng chuyền, văn nghệ, thi các trò chơi dân gian. Lễ Ramưvan gồm có 3 phần: lễ tảo mộ, lễ cúng gia tiên và lễ chay niệm tại thánh đường. Lễ tảo mộ là lễ khởi đầu tháng lễ Ramưvan, diễn ra vào cuối tháng 8 Hồi lịch. Tất cả các tộc họ ở các làng Chăm Bàni đều đi tảo mộ.
            Lễ vật trong lễ tảo mộ khá đơn giản gồm bánh trái, bình trà, rượu, trứng gà. Từng tộc họ đến nghĩa địa để làm cỏ, vun đất phần mộ (khác với mộ của các dân tộc khác, mộ của người Chăm Bàni là những hòn đá tròn xếp thành những hàng dài). Vào lễ, ông thầy Char làm lễ tẩy uế phần mộ và mời tiên tổ về dự lễ.
            Sau khi tảo mộ về, từng gia tộc làm lễ cúng gia tiên. Lễ vật cúng được làm rất nhiều mâm, mỗi thành viên phải có một mâm lễ. Mâm ngọt gồm bánh tét, bánh ít, chè, xôi, bánh sakaya. Mâm mặn có thịt gà luộc, cơm, canh, cá khô v.v... Mâm lễ dâng cúng trong lễ Ramưvan được cộng đồng và các tộc họ trang trí, bày biện rất đẹp mắt. Sau khi kết thúc lễ cúng gia tiên và những ngày hội vui tươi, các làng Chăm Bàni bước vào tháng chay Ramưvan trang nghiêm. Lễ Ramưvan kết thúc vào ngày 30 của tháng chay tịnh. Ngày kết thúc được tổ chức rất long trọng tại thánh đường.
            Nếu như Katê là lễ hội lớn nhất trong năm của người Chăm Ahiêr thì Ramưvan là lễ hội lớn nhất trong năm của người Chăm Bàni (người Chăm ảnh hưởng Hồi giáo). Khác với lễ Ramadan của cộng đồng những người theo Hồi giáo Islam, lễ Ramưvan của người Chăm Bàni mang nhiều sắc thái văn hóa Chăm, đó là sự kết hợp với những nghi lễ bản địa như lễ cúng gia tiên, cúng dâng gạo, cúng nữ thần và những năm sau này còn xuất hiện các loại hình văn nghệ, thể thao và các trò chơi dân gian.
 2.2.2. Hệ thống thánh đường
Tín đồ Bàni và tín đồ Ixlam có thánh đường riêng. Hiện có 7 thánh đường Bàni ở 7 làng. Người Chăm gọi thánh đường Bàni là “Thang mưgik” hay “Thang Pô” (nhà thánh), “Thang Dhar” (nhà phước), nhiều người ở Ninh Thuận gọi là chùa Bàni. Ngày xưa, thánh đường làm bằng nhà tranh, sau này được xây cất bằng gạch ngói, hiện nay nhiều thánh đường từng bước được tu bổ khang trang, hiện đại theo phong cách thánh đường nhưng không hoàn toàn chịu ảnh hưởng của phong cách các thánh đường Hồi giáo quốc tế.
Thánh đường Bàni là một ngôi nhà lớn nằm trong khuôn viên được bao bọc bằng những tường rào ở trung tâm làng. Cổng khuôn viên hướng đông bắc, có mái che. Các bức tường thánh đường được xây dựng bằng gạch nhưng vẫn có khung nhà bằng gỗ, những hàng cột gỗ lớn. Đòn dông nhà đặt theo hướng đông - tây, cửa thánh đường mở hướng đông ở phía đầu hồi. Có một nhà khách làm bằng gỗ, đòn dông hướng bắc - nam. Trong lòng thánh đường để trống, không trang trí gì. Chỉ có một mihrab ở bức tường trong cùng, là một khung gỗ cao chừng 2m, rộng khoảng 1,5m, là nơi để các tu sỹ đọc kinh và làm lễ. Bên phải của mihrab có một cái bục gọi là minbar, là nơi để vị Khotip giảng kinh. Trong khuôn viên thánh đường còn có một cái giếng để lấy nước làm lễ thánh tẩy.
Thánh đường là nơi các tu sỹ và các tín đồ Bàni đến cầu nguyện và dâng lễ trong các dịp lễ, là nơi làm lễ phong các chức sắc tu sỹ Bàni, nơi tập trung tín đồ tham dự mùa chay Ramưwan. Phụ trách thánh đường là một hội đồng do tín đồ bầu lên, có nhiệm kỳ từ 3 đến 5 năm. Hiện nay thánh đường còn là nơi hội họp của các chức sắc, các nhân sỹ trí thức để bàn bạc việc làng.
2.2.3. Hệ thống chức sắc Bàni
Mỗi thánh đường Bàni đều có đội ngũ chức sắc phụ trách các sự vụ tôn giáo. Tầng lớp tu sỹ Bàni được gọi chung là “thầy char”(cũng giống như thầy pà xế bên Bàlamôn). Theo quan niệm “nhất thể lưỡng hợp”, chức sắc Bàlamôn được coi là âm (tóc búi tó) thì chức sắc Bàni là dương, cạo tóc, để râu. Các cấp tu sỹ có trang phục chức sắc riêng: áo quần màu trắng, áo dài, cạo tóc và bịt khăn.
Hệ thống tu sỹ Bàni được tổ chức rất chặt chẽ, được phân công theo khu vực thánh đường và được chia thành bốn cấp:
- Chức sắc Char (Achar): là những người mới gia nhập vào hàng ngũ tu sỹ. Tùy theo thời gian và khả năng của từng người để chia chức thầy Char ra làm bốn cấp: thầy char Jăm ak, thầy char Talavi, thầy char Pôsit và thầy char Pô prong. Lễ tôn chức Char được tổ chức trong tháng ăn chay Ramưvan. Cấp Char cũng có người được tham gia vào trong ban thường trực của thánh đường và được gọi là imưmtình.
- Chức Khotíp hay típ: Là thầy giảng giáo lý hàng tuần vào thứ sáu. Thầy típ có nhiệm vụ thực hiện một số nghi lễ tại thánh đường và ở gia đình. Thầy típ nằm trong ban thường trực của thánh đường thì gọi là tip tanh.
- Chức Imưm hay mưm: Ông thầy điều khiển các buổi lễ “thứ sáu”. Muốn lên chức thầy imưm, phải là người đã trải qua hơn 15 năm tu hành, thuộc hết kinh Coran và thực hiện được các nghi lễ của tôn giáo. Trong số các thầy Imưm, những người có khả năng và các tiêu chuẩn được chọn ra mắt 40 vị thánh của đạo và được gọi là Imưm pah pluh (mưm bốn mươi). Sự lựa chọn tu sĩ để tôn chức Imưm pah luh rất khắt khe, phải được các thầy cả trong vùng chấp nhận.
Thầy cả Pô grù là chức vụ cao nhất và duy nhất trong một thôn hay một thánh đường Bàni. Ông là người có quyết định tối cao những vấn đề đạo và đời của các tín đồ Bàni thuộc khu vực thánh đường mình phụ trách, là người chọn ngày tổ chức các nghi lễ. Hiện nay ở Ninh Thuận có bảy thánh đường và bảy thầy cả phụ trách, bảy thầy này có chức quyền ngang nhau. Cứ ba năm, tất cả các chức sắc đến làm lễ suk yâng. Tại lễ này, các chức sắc của bảy khu vực thánh đường cử ra một ông phụ trách chung (như kiểu thư ký ban liên lạc) để quyết định những việc lớn liên quan đến cả bảy khu vực. Ông thư ký này thường phải là Imưm pah pluh, sau ba năm lại cử ra một ông khác.
Đối với tín đồ Bàni, thầy Char rất được nể trọng. Ông vừa là người thay mặt cho thánh Ala làm các nghi thức tôn giáo, vừa là người thay mặt cho người Chăm của cả hai tôn giáo Bàlamôn và Bàni làm chủ nhiều nghi lễ mang tính chất dân gian của người Chăm Bàlamôn và Bàni. Trong các lễ Ri chà của người Chăm Bàlamôn, phải có các thầy Char đến khai lễ. Trong các nghi lễ cộng đồng mang tính nông nghiệp như Rija nưgar, Kap hlâu Krong, Mưrôi, Plao asah, các thầy Char đều đến và làm chủ lễ một số tiểu lễ. Trong các lễ tẩy uế đất đai, nhà mới, chữa bệnh, các gia đình Chăm Bàlamôn đều có mời thầy Char làm lễ.
Chức sắc Bàni phải nối theo dòng họ và mỗi họ phải có một người làm thầy Char. Như vậy, mỗi thầy char trong một thánh đường đều là đại diện cho dòng họ mình. Muốn trở thành thầy char thường phải hội đủ các tiêu chuẩn: Phải giỏi chữ để học kinh thánh. Trước khi làm lễ tôn chức đã phải học kinh thánh; Là người đã có vợ, bản thân người nhập vào hàng ngũ thầy Char và vợ phải trong sạch. Vợ hoặc chồng không phải là một trong các trường hợp song sinh; Phải là tín đồ Bàni ít nhất là ba đời.
Kết luận:
Người Chăm cũng như các dân tộc ở Đông Nam á, đều có nền văn hóa bản địa chung của cư dân nông nghiệp lúa nước. Trải qua những giai đoạn lịch sử đầy biến động thăng trầm, văn hóa của người Chăm biến đổi đồng hành cùng diễn trình vận động trong không gian, qua thời gian của sự tiếp biến, loại trừ đa nguồn văn hóa, sự giao thoa, hòa nhập, giữa những yếu tố văn hóa nội sinh và ngoại sinh, tạo nên một sắc thái văn hóa Việt Nam ngày nay.
Tín ngưỡng của người Chăm rất phong phú và đa dạng, là bộ phận cấu thành của nền văn hóa Chăm, chi phối sâu sắc tới đời sống cộng đồng của người Chăm và hệ thống luật tục của người Chăm. Đó là hình thức tín ngưỡng sơ khai nguyên thủy với tục thờ núi, thờ các loài cây và thờ biển trong các dòng họ Chăm. Đó là hình thức tín ngưỡng liên quan tới sản xuất nông nghiệp với các lễ cúng thần lúa, lễ xuống cày, lễ đắp đập khai mương... Đó là hình thức tín ngưỡng liên quan tới vòng đời người với hệ thống các tục lệ về các lễ trong đám cưới, đám tang, lễ nhập Kút, nhập Ghôl và các hình thức tín ngưỡng liên quan tới thờ cúng tổ tiên. Bên cạnh các lễ nghi tín ngưỡng đó, người Chăm còn thờ các vị thần núi, thần sông, thần sấm sét... Tất cả những lễ nghi tín ngưỡng đó tuy một số nội dung không còn phù hợp với cuộc sống hiện nay song từ lâu nó đã là một bộ phận đời sống tâm linh và trở thành hạt nhân cơ bản hình thành nên diện mạo tôn giáo người Chăm.




Trước thế kỷ thứ VII, cư dân Arập theo tín ngưỡng đa thần, thờ thần mặt trăng, mặt trời…và tiêu biểu là thờ các phiến đá thiên. Đến thế kỷ VII do nhu cầu thống nhất đất nước cần có một hệ tư tưởng thống nhất, xuyên suốt Mô – ha – mét đã sáng lập đạo Islam
Miền Trung nổi tiếng với Trầm hương, Kỳ nam, gia vị và đặc biệt Vàng là những sản vật mà người Ấn Độ rất thích
Linga (hay còn gọi là lingam) là một cột trụ có hình dương vật đại diện cho Shiva. Các vua Chăm thường xuyên dựng và cúng các linga bằng đá để thờ ở trung tâm các đền tháp của hoàng gia. Tên mà vua Chăm đặt cho một linga sẽ bao gồm tên của nhà vua và đuôi "-esvara," tức là Shiva
Mukhalinga là một linga mà trên đó có vẽ hoặc chạm hình ảnh Shiva dưới dạng hình người hay hình khuôn mặt.
Jatalinga là một linga mà trên đó chạm phong cách điển hình của Shiva là kiểu tóc búi
Linga phân tầng là một cột linga chia làm ba phần đại diện cho ba thể (trimurti) của thượng đế trong Ấn giáo: phần dưới cùng, là một khối hình lập phương, tượng trưng cho Brahma; phần ở giữa, là một hình lăng trụ tám mặt, đại diện cho Vishnu; và phần trên cùng, có hình tròn, đại diện cho Shiva.
Kosa là một khối kim loại hình trụ được sử dụng để che phủ cho linga. Việc hiến tế một kosa để trang trí cho linga là một nét đặc trung độc đáo của đạo Si-va của người Chăm. Các vua Chăm thường đặt tên cho các kosa đặc biệt cũng theo cách họ tự đặt tên cho các linga

Thứ Năm, 2 tháng 8, 2012

CHỨNG CỨ MỚI VỀ KOSA CỦA CHAMPA


CHỨNG CỨ MỚI VỀ KOSA CỦA CHAMPA

John Guy

Mục đích của bài viết này là giới thiệu một số kosa làm bằng quý kim đã được phát hiện ở vùng đất trước đây là kinh đô của Champa ở miền Trung Việt Nam, trong đó có hai hiện vật có lai lịch rõ ràng. Kosa là một chiếc bao kim loại, làm bằng vàng hay bạc, thường được miêu tả trong các tư liệu Chăm, dùng để phủ lên linga, hiện thân của Siva. Kosa kết hợp với một số phù điêu biểu thị khuôn mặt hay đầu thần Siva, được thiết kế để bao phủ phần trên (Rudrabhaga) củalinga. Danh xưng kosa xuất phát từ một chữ Phạn, miêu tả một lớp vỏ bọc hoặc một cái bao dùng để đựng những báu vật.(1) Những chiếc bao bên ngoài linga như thế được dùng trong các nghi lễ rửa tội và tẩy uế, tuân theo tập tục abhisekacủa người Ấn Độ. Việc dâng hiến những món quà đắt tiền như vậy hình thành từ một phần việc quan trọng nhằm thực thi nghĩa vụ thiêng liêng của đạo Bà La Môn, dana, nghi lễ hiến tế của tín đồ đối với vị thần họ tôn thờ.

Danh xưng kosa rất phổ biến trong tín ngưỡng Saivite ở Ấn Độ nhưng hiếm khi được biết đến ngoài tiểu lục địa này. Những minh văn do những người trị vì vương quốc Champa cho khắc trên các bi ký đã nhắc lại những liên hệ đối với vai trò then chốt củakosa trong nghi lễ chính thống được thực thi nhân danh nhà vua. Những minh văn này cho thấy mối liên hệ rõ ràng giữa kosa với những chức năng tín ngưỡng và ma thuật, mà trọng tâm là tính hợp pháp chính trị và sự tồn tại của nhà vua cùng vương quốc của ông.

Cố giáo sư Jean Boisselier (1963) đã cung cấp một sự miêu tả toàn diện nhất về hiện diện của kosa ở Champa. Miêu tả này dựa trên những công trình nghiên cứu trước đó của các nhà văn tự học người Pháp. Ngôn ngữ được ưa chuộng trong những minh văn này là chữ Phạn, thứ ngôn ngữ giảng dạy của các đạo sư Bà La Môn, được truyền từ Ấn Độ đến Đông Nam Á. Một trong số những minh văn bằng chữ Phạn được phát hiện sớm nhất ở Đông Nam Á là của vị vua Bhadresvara I của vương quốc Champa, được tìm thấy ở Mỹ Sơn, có niên đại vào cuối thế kỷ 4.(2) Minh văn này cung cấp những bằng chứng trực tiếp sớm nhất về sự chấp nhận tư tưởng Ấn Độ giáo của người đứng đầu vương quốc Champa. Những minh văn đầu tiên này đã định hình một kiểu minh văn đặc trưng trong những lời đề tặng của hoàng gia Champa đối với thần linh sau này. Sự xác nhận của người trị vì vương quốc đối với thần linh được thể hiện qua việc sử dụng một cái tên chung. Vì thế, vị thần Siva được thờ trong một ngôi đền ở thánh địa Mỹ Sơn được gọi là Siva-Bhadresvara. Đối với những người trị vì ở đây thì những ai có tham vọng làm vua đều quan tâm tới những bí quyết liên quan đến mong muốn củng cố uy quyền của họ trong một vương quốc có nền chính trị phân tán và đầy biến động.(3) Không có gì nghi ngờ về những biểu đạt mang tính chính trị và tính chiến đấu trong các sử thi Bà La Môn (cả Mahabharata vàRamayana đều rất nổi tiếng ở Champa). Những biểu đạt này đã tác động đến những người đứng đầu những trung tâm chính trị ở Champa, vốn là những nơi luôn có sự căng thẳng triền miên với các lân bang xung quanh.

Minh văn bằng chữ Chăm sớm nhất hiện còn cũng liên quan đến vị vua Bhadravarman I, đồng thời đề cập đến kinh đô Simhapura (Trà Kiệu) của vị vua này. Minh văn này cũng ca tụng “con rắn linh thiêng của đức vua” (chắc hẳn có liên quan đến một vài hình thức thờ phụng naga - được tìm thấy nơi một cái giếng ở gần phế tích kinh đô Trà Kiệu). Minh văn này tuy không đề rõ niên đại, nhưng được cho là vào cuối thế kỷ 4, đã hàm chứa một số từ vựng vay mượn từ chữ Phạn.(4) Ngoại trừ phát hiện riêng biệt này, tất cả các minh văn trong thời kỳ này đều là chữ Phạn, cho đến thế kỷ 7, lúc mà cả chữ Phạn lẫn chữ Chăm đều được khắc cùng trên một tấm bia. Những minh văn này đều là lời đề từ liên quan đến sự hình thành các ngôi đền, việc trùng tu những ngôi đền ấy hay sự tôn vinh thần linh. Những thông điệp tôn giáo bằng chữ Phạn và chữ Chăm được sử dụng để phản ánh những khía cạnh thế tục của sự hiến tặng, điển hình là những lễ vật và đất đai để mở mang đền thờ. Điều này vẫn thường diễn ra ở Mỹ Sơn cho đến cuối thế kỷ 10.(5)

Một số thông điệp viết bằng chữ Phạn đã cho thấy lễ vật quan trọng nhất mà nhà vua dâng cho đền thờ, hoặc chính xác hơn, cho thần linh chính là kosa, được làm bằng kim loại quý và thường được tô điểm bởi những viên đá quý. Chúng được miêu tả đa dạng, đặc biệt là hầu hết đều liên quan đến số khuôn mặt tương ứng (đa phần thường có bốn hoặc năm khuôn mặt) và luôn có giá trị cao. Những minh văn từ thế kỷ 4 viết về vị vua Bhadresvara I được nhắc đến trên đây đều không đề cập đến việc kosa có được sử dụng trong các nghi lễ liên quan đến ngôi đền thờ này hay không? Một trong những dấu hiệu đáng tin cậy đầu tiên về việc sử dụng kosa xuất hiện trong minh văn của hoàng gia vào đầu thế kỷ 8, mà K. Bhattacharya đã dịch là “ông (người trị vì) làm ra… hai kosa [năm 721 sau Công nguyên]cho Thượng đế, một kosa có thể dịch chuyển, còn cái kia thì cố định. Kosa có thể dịch chuyển mang (một hoặc nhiều) khuôn mặt”.(6)

Ý nghĩa của kosa ở Champa

Sau đây chúng ta có thể xác định ý nghĩa của kosa của Champa và những tín ngưỡng mà nó hàm chứa. Vai trò trung tâm và giới hạn mà tín ngưỡng Saivite lập nên ở Champa nhằm liên kết quyền uy chính trị với quyền năng tôn giáo, là nền tảng cho sự liên kết giữa người thống trị với thần linh. Điều này được thể hiện rõ nhất trong những nghi lễ liên quan đến kosa. Đây là sự thật, bất kể nhà vua mến mộ một tôn giáo đặc biệt nào. Vì thế, chúng ta có thể nhận diện các trích đoạn trong sử thi Ramayana được trang trí trên bệ (pitha) của một linga đồ sộ, niên đại vào thế kỷ 10, từ điện thờ chính của một ngôi đền ở Trà Kiệu và những cảnh sinh hoạt của Krishna trên một phù điêu có niên đại vào thế kỷ 10 ở Khương Mỹ. Rõ nhất là trường hợp Phật viện Đại Thừa được vua Indravarman II xây dựng ở Đồng Dương. Một bi ký có niên đại vào năm 875 đã tôn vinh bồ tát Lokesvara của Phật giáo dưới cái tên Laksmindra Lokesvara. Minh văn tương tự cho thấy nhận thức của Indravarman về sự phụ thuộc của ông vào quyền uy tối thượng của thần Siva, thể hiện trong việc cúng dường một kosa “với khuôn mặt bằng vàng”.(7)

Những minh văn khác xác định giá trị của những quý kim được sử dụng để chế tác kosa: vào năm 1194, hoàng tử Vidyanandana của Suryavarmadeva đã tuyên bố rằng trong những lễ vật cúng dường cho thần linh ở Mỹ Sơn, Srisanabhresvara, “nhằm đạt được những phẩm chất xứng đáng trong kiếp này và các kiếp sau”, có một kosa bằng vàng có sáu khuôn mặt (sadmukha) nặng 510thei.(8) Lời đề tặng bằng chữ Phạn của Jaya Indravarman ở Mỹ Sơn vào năm 1163 ghi nhận việc nhà vua dâng tặng một kosa bằng quý kim có năm khuôn mặt (panchamukhalinga). Những minh văn này nói rằng “Vị thần này dù rất bao dung nhưng không thể ban phước khắp cả 10 phương; vì vậy hiện giờ ông trở thành thần bảo hộ với năm khuôn mặt hoàng gia (Siva) với nhiều thế lực”.(9)

Điều này dường như có ý nghĩa khá rõ ràng, cụ thể là sự can thiệp của hoàng gia để làm nên một kosa quý giá sẽ làm tăng khả năng của linga trong việc bảo vệ bờ cõi của vương quốc.

Theo chương Uttara-kanda trong sử thi Ramayana thì việc thờ phụng linga bằng vàng là phương tiện để bảo đảm sự thịnh vượng. Quỷ vương Ravana mang một linga bằng vàng trên người và phụng thờ linga này để đạt đến quyền năng.(10)

Như đã đề cập ở trên và dựa vào những mảng chạm khắc trên bệ của một linga vĩ đại được chuyển về từ cố đô Simhapura (Trà Kiệu) của vương quốc Champa, có thể nhận thấy sử thi Ramayana rất phổ biến ở Champa. Phải chăng sự liên quan giữa vàng với việc tìm kiếm quyền năng trong sử thi Ramayana chính là nguồn gốc của sự trùng hợp ngẫu nhiên này trong tín ngưỡng Champa? Dĩ nhiên sự xuất hiện của những minh văn bằng chữ Chăm đã làm rõ hơn những hiểu biết về mối liên hệ này. Truyện cổ tích Ấn Độ ám chỉ về lớp bọc bằng vàng của thần Siva đã soi sáng thế giới của ngài(11) có thể dùng để so sánh với việc những vị vua của Champa đề cao những kosa bằng vàng như là công cụ ma thuật khiến cho Siva mở rộng mối quan tâm về lãnh thổ.

Một mảng phù điêu chạm trên bệ thờ ở phế tích Mỹ Sơn E.1 cho chúng ta một bằng chứng trực quan độc đáo về một đạo sĩ Bà La Môn đang thi hành lễ puja: vị đạo sĩ đang rót nước rửa tội từ chiếc bình có vòi lên một linga có một khuôn mặt, gọi là ekhamukhalinga. Hình người quỳ phía sau vị đạo sĩ biểu thị một tín đồ đang hành lễ. Nếu ngôi đền E.1 ở Mỹ Sơn là đền thờ dành cho hoàng gia, thì có thể nêu giả thuyết rằng tín đồ đang hành lễ chính là thành viên của hoàng tộc Chăm, hoặc giả là người bảo trợ của ngôi đền.

Chứng cứ mới

Có một số kosa đã được phát hiện trong những năm gần đây.(12) Tôi sẽ miêu tả một vài kosa mà tôi đã giám định, dựa trên những nghiên cứu khoa học, cho thấy những đặc điểm tương hợp với kim loại lâu đời. Tất cả đều được làm từ những miếng vàng, đúng ra là hợp kim vàng và bạc, trong đó vàng là thành phần chủ yếu. Cũng có một hiện vật chế tác từ hợp kim đồng thau. Sự phát hiện những hiện vật hiếm hoi và khác thường này đã làm gia tăng số lượng bản sao giả mạo trên thị trường với nhiều mức độ. Một vài kosa này đã được giám định khoa học, còn một số khác thì không.(13)

Những kosa này, gọi là đầu tượng thì chính xác hơn, có hình trụ tròn và cuối phần cổ khá dài của chúng có dấu vết của những lỗ đinh để tán vào một bề mặt khác, chắc hẳn là phần thân của kosa. Các kosa được chế tác từ những nguyên liệu như nhau, đặc biệt rất giống nhau về thành phần nguyên liệu. Chiếm tỉ lệ lớn trong hợp kim là vàng, kế đến là bạc và một số ít kim loại khác.(14) Tất cả kosa đều tạo thành từ những miếng vàng, được dán với nhau bằng nhựa thông hoặc sáp ong. Phần trán của đầu tượng và phần búi tóc thường được làm từ một miếng vàng, phần sau làm từ một miếng khác, được nối với nhau bằng một khớp nối hình răng cưa. Để làm được điều này cần có sự kết hợp của kỹ thuật dập khuôn với các hình thức gia công khác như đục và tạo ren. Có một hiện vật cho thấy sự kết hợp tuyệt vời giữa pha lê với đá quý màu đen để khảm lên phần trán tượng, tạo thành con mắt thứ ba, lông mày, mắt và râu của thần Siva. Trong khi có một số mảnh khảm bằng đá quý đã bị thay thế thì cũng có những đầu tượng còn giữ được các mảnh khảm nguyên gốc hoặc đã được mài lại. Có thể tháo rời đồ trang sức, tất cả khuyên tai và những phụ kiện khác ra khỏi đầu tượng để điều chỉnh cho phù hợp với phục trang của đền thờ khi tế lễ. Một vương miện bằng vàng có khảm đá quý cũng được phát hiện, cùng loại với chiếc vương miện được phát hiện ở Mỹ Sơn vào đấu thế kỷ 20 và đã được Parmentier công bố vào năm 1903 trên tập san của Trường Viễn Đông Bác Cổ. Chiếc vương miện này quá nhỏ để người thường có thể sử dụng, nên có thể giả định rằng chiếc vương miện này dùng để trang trí cho tượng Siva thờ trong đền thờ. Trong trường hợp này, có thể người Chăm đã tuân theo nghi thức hành lễ của Ấn Độ, nên đã sử dụng vương miện này để nâng cao hiệu lực cho pho tượng và tăng thêm phần “cám dỗ” mà tín đồ đã dâng hiến để thần linh “cư ngụ” (dù là tạm thời) trong pho tượng ấy.

Tuy đa dạng, song các đầu tượng kosa vẫn có cùng một số đặc trưng cơ bản cho phép một sự miêu tả tổng quát: Khuôn mặt nhìn về phía trước; mắt mở to; con ngươi được khảm bằng đá quý. Con mắt thứ ba của đầu tượng có chung một đặc điểm nổi bật là nằm ở trước trán và ở vị trí cao hơn. Lông mày hình vòng cung hướng lên trên, chạm nổi hoặc khắc chìm; râu cũng được thể hiện theo kỹ thuật tương tự. Tóc của thần Siva được bện cẩn thận, theo kiểu tóc jatabandha đặc trưng. Búi tóc trong hầu hết các hiện vật đều được làm từ một miếng kim loại riêng biệt rồi mới được gắn tượng. Đầu tượng vươn cao với cái cổ dài, được đánh dấu bởi những ngấn cổ riêng biệt. Phần cuối của cổ là một đường gờ nổi có các dấu đinh tán, có thể đoán là để gắn đầu tượng vào thân của kosa. Những phân tích thành phần kim loại còn lưu trên vết đinh tán có thể nhận định rằng hợp kim làm nên phần thân của kosa có thành phần chính là bạc.

Những minh văn liên quan đến kosa thường miêu tả kosa có nhiều khuôn mặt, đa phần là bốn mặt. Song có một điều không được rõ là liệu những đầu tượng kosa này có cùng gắn lên một linga hay không? Hay chúng là những cá thể riêng biệt trong một nhómlingakosa? Đây là thực tế phổ biến trên các mukhalinga Ấn Độ, với những đặc điểm riêng cho từng khuôn mặt, phản ánh những diện mạo và tính cách khác nhau của Siva. Tuy nhiên, trong những kosa hiện còn, không có hai cái nào có chung thành phần hợp kim, chung niên đại, hay giống nhau về kích thước và kỹ thuật tạo hình. Điều này chứng tỏ rằng chúng không liên quan với một cổ vật hay là chúng là bộ phận của cùng một lingakosa.

Việc xem xét, đối chiếu phong cách tạo hình của các đầu tượng này với phong cách điêu khắc đá Champa đồng đại có thể giúp ích cho những nỗ lực xác định niên đại của những đầu tượng này.

Một pho tượng Siva đứng trong ngôi đền Mỹ Sơn C1 (thế kỷ  8 - 10) và một đầu tượng Siva không rõ nguồn gốc (có niên đại khoảng thế kỷ 10) đều mang những đặc trưng giống như trên một đầu tượng kosa hiện còn. Tất cả đều có đôi mắt to; lông mày liền một dãi; bờ môi dày ẩn dưới hàng ria rậm và bóng mượt; tóc được chải gọn gàng, bới cao theo kiểu jata và tạo dáng cũng như nhau.

Có một cách xác định niên đại khác nhờ việc giám định những kiểu thứclinga liên quan đến những nơi thờ tự chủ yếu của hoàng gia Champa. Điều này có thể gợi ý về niên đại của kosa. Cả hai đều liên quan đến việc phân tích minh văn và phong cách tạo hình so với nguyên mẫu ở Ấn Độ. Sự hiện diện của lingatrong nghệ thuật Ấn Độ thể hiện một xu hướng rõ ràng theo thời gian, bắt đầu với cấp độ phát triển cao của chủ nghĩa tự nhiên, hướng đến một sự cách điệu hóa, giảm dần những đặc trưng hình thể; giảm thiểu các chi tiết và đường nét, và cuối cùng chỉ còn là một hình trụ đơn giản với ba phần phân biệt.(15) Văn bảnAgama miêu tả rất nhiều loại linga, gồm cả những linga cố định (achala-linga) và những linga có thể dịch chuyển được (chala-linga). Loại linga cố định đa phần làm bằng đá, còn loại dịch chuyển được hầu hết làm bằng nhiều nguyên liệu khác nhau, như: cát, đá tự nhiên, đá quý và các quý kim. Sự phát triển của linga ở Ấn Độ đạt cực thịnh với các kiểu thức quy ước có từ thời Trung Cổ và được miêu tả trong Visnudharmottara Purana:(16) Đó là một cấu trúc gồm ba phần: phần dưới cùng hình vuông (Brahmabhage), phần giữa hình lăng trụ bát giác (Visnubhaga) và phần trên cùng hình trụ tròn (Rudrabhaga, hay pujabhaga, là phần dâng hiến trong nghi lễ puja). Tên của từng bộ phận trong linga được phản ánh trong huyền thoại Lingodbhavamurti(17) rất nổi tiếng ở Đông Nam Á, nhất là vào thế kỷ 7. Theo quy định, hai phần bên dưới ẩn trong chân đế (pitha), không nhìn thấy được; còn kosa chỉ được dùng để bao phủ phần trên cùng.

Tại những trung tâm của vương quốc như Mỹ Sơn và Trà Kiệu có lưu giữ một số achala-linga bằng đá. Những lingacủa Champa thuộc loại linga gồm ba phần đặc trưng của linga Ấn Độ thời Trung Cổ, song các phần này đều gắn kết trong một tổng thể. Tuy nhiên, không giống như những linga đầu tiên tìm thấy của Ấn Độ vào thế kỷ 5, những linga ở Mỹ Sơn, có niên đại khoảng thế kỷ 8 đến thế kỷ 10, hoàn toàn không được trang trí, nhưng lại có thêm một số chi tiết nhô ra.(18) Những linga này có niên đại tương tự nhóm hiện vật ở Trà Kiệu, trong đó có đài thờ lớn hiện đang trưng bày ở Bảo tàng Điêu khắc Chăm ở thành phố Đà Nẵng. Đặc điểm đáng chú ý này đã gợi nhớ về những ekhamukhalinga thời kỳ đầu, hiện vẫn còn sót lại ở Campuchia và Thái Lan. Đó là những linga mang một đầu Siva nhỏ ở phần cuối của rãnh thoát. Loại linga này không có trong nghệ thuật Ấn Độ. Trong cách giải thích khác cho rằng những đạo sĩ và nghệ sĩ Bà La Môn chịu trách nhiệm phát triển nội dung hành đạo hơn là việc định hình những quy ước theo phong cách Ấn Độ.

Những so sánh về sự tương đồng trong phong cách tạo hình các linga bằng đá với các lingakosa bằng quý kim có thể giúp cho việc xác định tạm thời niên đại của các kosa là vào khoảng thế kỷ 10.

Ở Champa rất hiếm thấy mukhalinga bằng đá, có thể do sự thừa nhận vai trò của kosa. Một hiện vật phát hiện ở Trà Liên (Quảng Trị), dù bị hư hỏng, vẫn thể hiện một khuôn mặt của thần Siva trên một phần thân có hình dạng kỳ lạ.(19) Ở vùng cực nam của Champa có hai ngôi đền thờ mà sau này người Chăm vẫn cử hành lễ lingapuja. Đó là đền thờ Po Klaung Gerai (tỉnh Ninh Thuận, xây dựng từ thế kỷ 13) và đền thờ Po Rome (tỉnh Bình Thuận, xây dựng vào thế kỷ 17). Trong đền Po Klaung Gerai có một ekhamukhalinga kỳ lạ, thần Siva hiện thân nơi đây mang những đặc trưng của vị thủ lĩnh cổ xưa của một vùng. Còn tại đền Po Rome, thần Siva trở thành vị thần Hộ thế bát thiên phương. Điều này chủ yếu bắt nguồn từ truyền thống thờ cúng tổ tiên. Lớp vỏ Ấn Độ giáo chỉ tồn tại một thời gian và những ký ức về năng lực siêu nhiên huyền bí của Siva đã gần như bị quên lãng.

Tín ngưỡng Saivite và việc sử dụng kosa ở Champa đã góp phần quan trọng vào sự hiểu biết của chúng ta về tập quán thờ cúng của Ấn Độ cổ xưa, thậm chí cả khi bối cảnh văn hóa diễn ra nghi lễ này rất khác nhau. Điều này cũng cung cấp thêm chứng cứ để khẳng định rằng các nền văn hóa ở Đông Nam Á đã du nhập và tiếp biến văn hóa Ấn Độ để đáp ứng nhu cầu bản địa trong một hệ thống đức tin về vũ trụ quan đang còn sơ khai.

(Trà My và Anh Sơn lược dịch từ bản tiếng Anh)



CHÚ THÍCH

(1) Danh xưng kosa được sử dụng trong Mahabharata VIII, 1733. Xem: Monier-Williams, A Sanskrit -English Dictionary (Từ điển Phạn - Anh), Oxford University Press, 1899, p. 314.

(2) Vấn đề xác định niên đại các ký tự Ấn Độ phát hiện ở Đông Nam Á được de Casparis đưa ra vào năm 1978. Xem: D. C. Sircar, 1941, “Date of the earliest Sanskrit inscription of Campa” (Niên đại của những minh văn chữ Phạn sớm nhất của Champa”, Indian Historical Quartly, vol. XVII, no. 1.

(3) Địa giới của Champa trong thời kỳ đầu này rất khó xác định, nhưng dường như trung tâm của vương quốc này là các khu vực được biết đến dưới các tên gọi Indrapura và Amaravati (“miền bắc Champa”; hiện nay là tỉnh Quảng Nam), trải dài từ những ngọn đồi ở Mỹ Sơn đến trung tâm Trà Kiệu sâu trong nội địa cho đến vùng duyên hải. Xa hơn về phía nam của “miền nam Champa”, với trung tâm đầu tiên là Vijaya (tỉnh Bình Đình) và sau đó là Kauthara (tỉnh Khánh Hòa) và Panduranga (Mũi Dinh và tỉnh Bình Thuận).

(4) G. E. Marrison, 1975, “The Early Cham Language, and its relationship to Malay” (Ngôn ngữ Chăm sơ kỳ và mối quan hệ của nó với tiếng Mã Lai), Journal of the Malaysian Branch of the royal Asiatic Sociaty, vol. 48, pt. 2, 1975, p. 53.

(5) Một loạt văn tự viết bằng chữ Chăm xuất hiện trong các năm 875 - 972 đã được giới thiệu bởi G. E. Marrison. Xem: G. E. Marrison, Ibidempp. 54 - 58. 

(6) K. Bhattacharya, 1966, “Linga-kosa” (Linga-kosa) in Ba Shin (Ed.), Essays offered to G. H. Luce, Artibus Asiae Supple. 23, vol. 2, p. 6.

(7) J. Boissellier, 1956, “Art du Champa et au Cambodge Préangkorien la date de Mi-son E.I” (Nghệ thuật Champa và ở Campuchia thời tiền Angkor niên đại Mỹ Sơn E1”, Artibus Asiae, vol. XIX, no. 3/4, p. 91.

(8) J. Boissellier, Ibidem, p. 324.

(9) P. Mus, 1975, India seen from the East. Indian and Indigenous cults in Champa (Ấn Độ nhìn phía Đông. Ấn Độ và nghi lễ thờ cúng bản địa ở Champa), trans. by I. W. Mabbett. Melbourne: Monash Papers on Southeast Asia, 3.

(10) T.A.G. Rao, 1916, Elements of Hindu Iconography (Những yếu tố của nghệ thuật mô tả hình tượng trong Ấn Độ giáo), vol. II, pt. I, Madras: Law Printing House, p. 78.

(11) S. Kramrisch, 1981, The Presence of Siva (Hiện thân của Siva), Princeton University Press, p. 163.

(12) Những kosa này xuất hiện trên thị trường nghệ thuật Lonlon trong các năm 1996 - 1998. Lai lịch các kosa này đều được giữ kín. Những thông tin về giá trị tiền bạc và tâm linh của những kosa này được bảo mật trong kho báu của ngôi đền và có lẽ luôn được giữ kín vì những nguy cơ. Trong khi những kosa từng được biết đến đều có dấu mòn, sứt sẹo và han gỉ, thì những kosa mới phát hiện này không bị hư nát như những hiện vật bị chôn cất mắc phải. Có thể chúng được bảo vệ trong một vật khác.

(13) Ba trong số những đầu tượng Siva bằng hợp kim vàng và bạc nói trên đã được giám định và đã có kết quả khảo nghiệm. Đầu tượng thứ tư không được giám định nhưng có những đặc điểm tương tự với ba đầu tượng kia. Đầu tượng bằng đồng tuy không được giám định bằng qua kính hiển vi điện tử nhưng tình trạng gỉ đồng của đầu tượng này khiến người viết bài này tin vào tính xác thực của nó. Đầu tượng thứ sáu cũng làm bằng hợp kim vàng và bạc nhưng kết quả giám định xác nhận đó là đồ giả.

(14) Những chi tiết kỹ thuật dựa vào các báo cáo phân tích đáng tin cậy, trong đó có báo cáo của TS. Anna Bennett ở London. Thành phần hợp kim của các kosanày được xác định nhờ soi qua kính hiển vi điện tử sử dụng tia X nhưng người viết không nêu ra trong bài viết này, nhằm tránh việc vô tình giúp cho những ai đang tìm cách tạo ra những bản sao hiệu quả.

(15) Một biểu niên đại về xu hướng này đã được đề xuất bởi Mitterwallner. Xem: G. v. Mitterwllner, 1984, “Evolution of the Linga” (Sự tiến hóa của Linga) in M. Meister (Ed.), Discourses on Siva, Philadelphia: University of Pennsylvania, pp. 12 - 31.

(16) Niên đại của Visnudharmottara Purana đang gây ra sự tranh cãi, nhưng hầu hết đều cho rằng có thể là thế kỷ 7. Xem: G. v. Mitterwallner, Ibidem, p. 22.

(17) Huyền thoại Lingodbhavamurti nói về cuộc tranh cãi giữa Brahma và Visnu về việc vũ trụ tạo ra từ cái gì? Huyền thoại này nổi tiếng ở Java và ở Campuchia trong thời kỳ tiền Angko (cuối thế kỷ 7), được thể hiện trên ngôi đền Vat Eng Khna ở Kompong Thom.

(18) Một linga được chạm khắc ở Karamdanda, Uttar Pradesh (Ấn Độ), niên đại là năm 437 sau Công nguyên. Xem: G. v. Mitterwallner, Ibidemfig. 6.

(19) J. Boissellier, Ibidem, fig. 250.

Mẹ xứ sở Po Inư Nưgar trong tâm thức người Chăm Nam Trung Bộ

Mẹ xứ sở Po Inư Nưgar trong tâm thức người Chăm Nam Trung Bộ

Hình ảnh của Mẹ xứ sở Po Inư  Nưgar trong tâm thức người Chăm Nam Trung Bộ
Tín ngưỡng thờ Mẫu là giá trị văn hóa tinh thần cao đẹp của dân tộc Việt Nam. Từ khi đất nước đổi mới đến nay, tín ngưỡng dân gian nói chung và thờ Mẫu nói riêng đã được phục hồi ở người Việt và các dân tộc thiểu số khác. Điều đó góp phần làm cho bộ mặt văn hóa nước nhà thêm  phong phú và sống động.
Nữ thần Po Inư Nưgar của người Chăm
Nữ thần Po Inư Nưgar là biểu tượng linh thiêng nhất của người Chăm về Mẹ. Ngày nay các huyền thoại, truyền thuyết, kiến trúc, lễ hội… về Nữ thần vẫn còn tồn tại và in đậm trong đời sống nhân dân.
Nữ thần Po Inư Nưgar được coi là người Mẹ xứ sở của người Chăm, là người sáng lập ra vương quốc Champa. Từ thời cổ đại đến thời cận đại đã có rất nhiều thần thoại viết về nguồn gốc của Nữ thần. Ngay từ thời sơ thủy, trong dân gian đã bắt đầu kể về Bà:
"Ngài là Nữ thần mẹ của vương quốc
Ngài tạo dựng nên vùng đất cho cây cối và rừng gỗ quý sinh sôi
Ngài gây ra giống lúa và dạy dân gian trồng lúa
Vua trên trời ngửi thấy hương thơm của lúa đang trổ chọn, pha lẫn hương thơm trầm gỗ của người trần gian dâng tế trời.
Po yang Inư Nưgar mới cho đưa lên trời một hạt lúa có cánh trắng như đám mây.
Vua trên trời gieo hạt lúa ấy mà làm nên tất cả mọi giống lúa.
Tuy khác nhau về màu sắc bên ngoài nhưng bên trong thì hoàn toàn như nhau.
Po Inư Nưgar ghét hạng người độc ác, thường giúp đỡ hạng người hiền lành.
Lễ cúng Ngài chỉ có trầu, dâng trên hai cánh tay nâng cao".
Theo truyền thuyết, Bà là vị thần từ cõi trời xuống trần gian. Bà có 97 người chồng, 36 người con. Nữ thần có nhiều tên gọi khác nhau: Po Inư Nưgar (thần Mẹ xứ sở), Po yang Inư Nưgar Taha (thần Mẹ lớn xứ sở), Muk Juk (Bà Đen), Pataw Kamei (Vua của đàn bà), Bahagavati vari (Nữ thần Mẹ lớn Linga – Shiva). Khi Bà La Môn giáo xuất hiện ở Champa, người Chăm Bà La Môn giáo đã đồng nhất Po Inư Nưgar với Nữ thần Uma – vợ thần Shiva trong Bà La Môn giáo của người Ấn Độ. Về sau, dưới cách nhìn của người Chăm Bà ni lại cho rằng Bà là con gái của Âu Loa Hú (thượng đế).
Trong quá trình tiếp xúc, giao lưu với văn hóa Ấn Độ thì đã có sự hòa
nhập giữa vị thần Bhavapara (Uma – vợ của  thần Shiva) của Ấn giáo với nữ thần bản địa Po Inư Nưgar của người Chăm và sau này còn được Hồi giáo Bà ni hóa nữa. Kết quả của quá trình tiếp biến văn hóa đó, Po Inư Nưgar được các triều đại vua Champa ở vùng Kauthara (Nha Trang) tôn thờ ở vị trí tối cao.
Có thể nói, Po Inư Nưgar hiện diện trong tâm thức người Chăm như một vị thần tối thượng sinh ra mọi thứ từ vũ trụ đến đất đai, cây cối, lúa gạo và cả con người. Bà lại là nữ thần mẹ của xứ sở che chở con người Chăm và giúp họ tồn tại với chức năng là nữ thần nông nghiệp bởi đó là ngành kinh tế chính của họ từ trước đến nay. Do vậy đối với người Chăm, Po Inư Nưgar là vị thần tối thượng toàn năng, là đấng sáng tạo, là đấng bảo vệ, là đấng hủy diệt những điều xấu, điều ác.
Chính vì thế mà trong hầu hết các nghi lễ, nữ thần Po Inư Nưgar luôn được người Chăm cầu xin ban phước và bảo vệ. Trong suốt mười mấy thế kỷ cho đến nay, người Chăm vẫn luôn tôn thờ một Bà mẹ xứ sở của từng thôn làng họ.
Vai trò của tín ngưỡng thờ Mẫu trong đời sống người Chăm vùng Nam Trung Bộ
Đối với văn hóa của dân tộc Việt Nam vốn có nguồn gốc nông nghiệp, vai trò của người phụ nữ rất được đề cao trong đời sống cộng đồng, nó không chỉ biểu hiện qua ý thức mà còn cả trong tình cảm lẫn cuộc sống tâm linh của mỗi người.
Đối với người Chăm, vai trò của Nữ thần Po Inư Nưgar đặc biệt quan trọng, Bà dạy người Chăm biết cách trồng lúa, dệt vải, là vị thần đầy quyền năng sáng tạo. Bà đã nâng đỡ người Chăm đi những bước đầu trong tiến trình lập quốc của mình. Hình ảnh Po Inư Nưgar là Bà mẹ nhiệm màu đã xóa đi mọi ngăn cách tôn giáo, vậy nên dù là tín đồ của bất kỳ tôn giáo nào thì Bà cũng có một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của họ. Bà được tôn thờ một cách độc lập và trở thành một biểu tượng thiêng liêng.

Mặt khác, tín ngưỡng thờ Mẫu có rất nhiều nét gần gũi với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, một tín ngưỡng có vai trò quan trọng hàng đầu trong hệ thống tín ngưỡng dân gian Việt Nam nói chung và người Chăm nói riêng. Ngay cả tín đồ đạo Hindu cũng cảm nhận được tín ngưỡng thờ Mẫu có rất nhiều nét gần gũi với họ, đó là đức tin vào người mẹ. Thực tế trên lịch sử cho thấy giữa Ấn giáo và Champa đã có sự giao thoa ảnh hưởng lẫn nhau thể hiện qua hình ảnh nữ thần Uma (vợ thần Shiva) mà người Chăm đã tiếp nhận dưới hình tượng Po Inư Nưgar.
Đặc biệt vào tháng 3 âm lịch hằng năm, từ Bắc tới Nam đều tiến hành “giỗ Mẹ”. Ở người Việt là lễ vía Thánh Mẫu Thiên Y Ana, người Hoa là lễ vía Bà Thiên Hậu, còn người Chăm là lễ vía Thần nữ Po Inư Nưgar. Vào dịp này khách thập phương có thể chiêm ngưỡng sắc màu lễ hội, tạo nên không khí náo nhiệt trên khắp cả nước.
Tựu trung lại, có rất nhiều tộc người có tục thờ Mẫu, mỗi tộc người có một bà Mẫu khởi nguyên và họ xem đó là tổ tiên của mình như Mẫu Âu Cơ của người Việt và Po Inư Nưgar của người Chăm. Việc thờ cúng này là dấu vết sớm của tục thờ cúng tổ tiên của mỗi gia đình hiện nay. Lịch sử xã hội phát triển, các giai cấp và hình thái xã hội ra đời, ngoài những vị Mẫu được xem là nguồn khởi nguyên giống nòi thì riêng từng nhóm người lại tôn thờ một vị Mẫu thần cụ thể, gần gũi và cần thiết cho cuộc sống tâm linh của bản thân.



Tài liệu tham khảo:
- Các nữ thần Việt Nam (Đỗ Thị Hảo, Mai Thị Ngọc Chúc), NXB Phụ Nữ, Hà Nội, 1993.
Đạo mẫu ở Việt Nam (Ngô Đức Thịnh chủ biên), NXB Văn Hóa Thông Tin, 1996.
Về tín ngưỡng lễ hội cổ truyền (Ngô Đức Thịnh chủ biên), NXB Văn Hóa Thông Tin (2007).
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung Việt Nam (Nguyễn Hữu Thông chủ biên), Phân viện Nghiên cứu văn hóa tại thành phố Huế, NXB Thuận Hóa, 2001.
- Tiếp cận tín ngưỡng dân gian Việt Nam (Nguyễn Minh Sang), NXB Văn Hóa Dân Tộc Hà Nội (1994).
Từ thần thoại Po Inư Nưgar đến Thiên Y Ana. Những vấn đề dân tộc học ở miền Nam Việt Nam, Tập II, quyển 2 (Văn Đình Hy). Viện Khoa học xã hội TP Hồ Chí Minh, 1978.






MỸ SƠN: THÁP LỚN VÀ BỆ THỜ YONI


MỸ SƠN: THÁP LỚN VÀ BỆ THỜ YONI

Từ trên đồi cao của khu A chúng ta có thể nhìn thấy được bao quát toàn bộ Thành địa Mỹ Sơn với những nóc tháp bên dưới ẩn hiện trong những tàn cây hay bị che lấp sau những bụi cỏ gai, điêu tàn, xơ xác, thê lương đến ngậm ngùi, những ngôi tháp không còn nóc rệu rã, những pho tượng mất đầu, các di chỉ, bi ký, các tác phẩm điêu khác bằng gạch hay sa thạch lên mốc thời gian, các loại cây ký sinh tầm gởi như sanh hay bồ đề có tuổi thọ khá cao đeo bám như những phần xương máu huyết mạch của các công trình kiến trúc.
Nếu làm biểu tượng đại diện cho Thánh địa Mỹ Sơn thì khu C này là nơi tiêu biểu nhất, không những về mặt cảnh quan mà còn về số lượng, chất lượng của các đền tháp, bi ký, tượng đài và các tác phẩm điêu khắc bày biện ở đây vô cùng phong phú, đa dạng, ngoài ra diện tích của khu vực này cũng lớn nhất so với các khu khác, bởi vì từ đây đến mí chân núi Mahaparvata cũng còn hơn 1,5 Km.
Dưới chân tháp thì cỏ dại dây leo chui rúc qua kẽ hở, ngóc ngách của các pho tượng hay các khung trang trí của các mặt nạ ở chân tường gậm nhấm, xói mòn, rạn nứt, sụp đổ... những kiệt tác của một nền văn hóa mà độ dài thời gian ai nghĩ đến cũng phải nuối tiếc thương hại cho số phận của nó, đó một hình ảnh của Thánh địa Mỹ Sơn, một di tích văn hóa của Quảng Nam–Đà Nẵng và của tất cả chúng ta.
Nhìn trên cao phía từ Đông Nam của thung lũng thì khu C trải rộng nằm soãi ra bắt đầu bởi một mặt bằng, đỉnh của một ngọn đồi thấp, khu vực này chạy dọc theo triền dồi về hướng tây và càng xuống, càng thấp dần cho đến khi gặp khu bình nguyên đáy của thung lũng, khu C được phân chia thành những ô đất hình bậc thang, trên đó các kiến trúc đền tháp được xây dựng, phần bình nguyên dưới chân đồi tương đối rộng rãi và thoáng, diện tích đất ở đây đủ để cất lên nhiều đền tháp.
Và từ khu vực này có thể quan sát các đền tháp chung quanh thánh địa, xét về mặt địa lý thì nó được xem như trung tâm của vùng đất này.
Một con suối chạy vòng vèo bao quanh làm cho cảnh trí ở đây thêm phần huyền bí, có khi thì dòng suối như chảy ngầm trong hang động mí nước len lỏi qua các tàn cây ụp xuống nước, tàn lá cây rừng nguyên sinh che kín ánh mặt trời làm cho khung cảnh càng mờ ảo, âm u, bí ẩn... người ta có cảm giác rờn rợn bất an... lẩn khuất đâu đó với ma rừng sơn lam chướng khí khi ngang qua một đoạn của con suối, mà từ mặt nước đen ngòm rong rêu chằng chịt bên dưới khói bốc lên như sương mù, ở một chỗ khác con suối lại phơi mình dưới ánh sáng mặt trời chói chang hai bên bờ chỉ là sỏi đá khô khốc, tia nắng chiếu từ hướng đông tới, xuyên qua dòng nứớc trong veo mát lạnh soi rõ từng tảng đá có nhiều màu sắc bên dưới thanh thoát và an bình.
Bình minh phía đông đầu suối là nơi trú ngụ các vị thần linh và hoàng hôn phía tây dưới suối là nơi yên nghỉ nghìn thu của các vì vua, của các quan đại thần của dân tộc và vương quốc Champa, một truyền thuyết cùa người dân Champa có từ khi lập quốc.
Bản đồ khu vực C
Khu vực C1 bây giờ gần như bình địa, lác đác chỉ còn những đống gạch màu nâu sẫm, những trụ đá nằm đơn độc, lẻ loi giữa những đám cỏ tranh, bụi gai cao ngút đầu.
Đi len lỏi trong những gai nhọn sắc của cây cỏ ngươi, trảng tranh ngọn cứng xước da, người ta có thể tìm thấy được dưới chân mình những nền cũ của các đền tháp đã sụp đổ do bàn tay của con người hay do tàn phá xói mòn của mưa gió, bão táp, của nắng cháy, của các cơn gió Lào nghiệt ngã thổi qua những ngọn núi đá phía tây dãy Trường sơn trong gần một ngàn năm.
Vĩ đại và đơn độc là một tượng đá đã bị lấy mất phần trên mà phần còn lại là một kiến trúc gồm có ba tầng được xếp từ nhiều mảnh khác nhau, nhìn kỹ hóa ra đó là hình của Yoni trong tổng thể của một bộ Linga–Yoni, phần Yoni còn lại nằm trơ vơ vững chắc trên một bệ đá có nhiều gờ, các gờ này có đường viền chung quanh. Phần chân đế của bệ đá thỉnh thoảng có hoa văn mà nét sắc sảo đã bị bào mòn, dưới bệ đá có một rãnh nước.
Tất cả đều được vây quanh bằng 4 bức tường gạch đổ nát có hai lối vào theo hướng đông–tây. Đó là di chỉ duy nhất còn sót lại tại khu vực này: một bệ đá to nhất (trên thế giới) hình Yoni mà người ta tìm thấy cho đến thời điểm hôm nay, ngoài nó ra thì vương vãi trên mặt đất, trong đám cỏ tranh là các trụ đá, gạch vụn... Khu C1 là nền cũ của một ngôi tháp với một kiến trúc đẹp nhất và vĩ đại nhất trong Thánh địa Mỹ Sơn, chung quanh nó, đôi chỗ vẫn còn thấy di tích nền móng của sáu ngôi tháp nhỏ bao bọc tạo thành một quần thể kiến trúc tăng thêm phần uy nghi vĩ đại của ngôi tháp chính, theo những tài liệu để lại thì đây là ngôi tháp cao nhất trong Thánh địa Mỹ Sơn với chiều cao 24 m, diện tích đáy là hình vuông, mỗi cạnh dài 10m, tháp có 2 cửa ra vào hướng đông và tây, hướng tây nhìn xuống khu C1, trong tháp thờ một bộ Linga–Yoni lớn (nay chỉ còn một bệ đá Yoni) phần trên tháp có 3 tầng, các tầng nhỏ dần lại và trên cùng là đỉnh tháp bằng sa thạch, ở mỗi tầng đều có cửa giả có hình người đứng dưới vòm cuốn, hai cửa giả hai bên hông là hai vòm cuốn chồng lên nhau, trên mỗi vòm cuốn là một hình tháp thu nhỏ, mỗi cửa chính đều có tiền sảnh, cửa hình vòm hoa văn rất tinh xảo, hai trụ vuông ép sát nằm hai bên làm tăng thêm vẽ uy nghi ngôi tháp.
Ngoài cửa tháp thì các trụ áp tường kéo dài khoảng 4 m với những trang trí hoa văn hình lá cuốn hình chữ S nối liền nhau, các vật trang trí là các tượng điêu khắc bằng sa thạch hình Makara, hình vũ nữ Apsara, sư tử, voi, chim thần Garuda...
Kiến trúc chân tháp gồm có hai phần, dưới nhỏ hơn trên, trang tri bằng những đóa sen trong các ô hình chữ nhật cùng các tác phẩm điêu khắc bằng sa thạch khác, cửa lên được thiết kế bởi 6 bậc cấp bằng đá.
Ngôi tháp này là biểu tượng cho nghệ thuật điêu khắc, kiến trúc xây dựng và thiết kế, nó có thể là mẫu mực cho các công trình kiến trúc sau này.
Ngôi tháp chính mà ngảy hôm nay trên nền đá của nó chỉ còn sót lại một bệ đá Yoni cô đơn buồn hiu trong buổi chiều nắng quái đỏ rực trên thánh địa Mỹ Sơn hoang vu đầy gió, nắng, cỏ tranh và hoa dại, một vùng đất thánh, một nơi linh thiêng một thời của dân tộc và vương quốc Champa.
Người Champa lập quốc vào cuối thế kỷ thứ II. Năm 192 cuộc khởi nghĩa thành công, nghĩa quân Tượng Lâm và Nhật Nam dưới sự lảnh đạo của Khu Liên lập ra một vương quốc lấy tên là Lâm Ấp, đó là một quốc gia đầu tiên hình thành ở phía nam nước Đại Việt. Lâm Ấp theo giải thích của Thủy Kính chú: Huyện Tượng Lâm, đọc theo chữ Hán là Tượng Lâm huyện hay Tượng Lâm ấp, về sau bỏ dần chữ Tượng thành ra Lâm Ấp. Năm 627-649, vua Viknâtavarman lên ngôi đổi quốc hiệu là Hoàn Vương Quốc. Năm 808, nhà Đường sang đánh, vua Hoàn Vương rút vào nam, đổi quốc hiệu là Champa tức Chiêm Thành, đến thế kỷ XII, dựa theo một bí ký của Champa thì quốc gia này bị Chân Lạp xâm chiếm kéo dài từ năm 1199 đến năm Canh Thìn (1220). Sau khi người Chân Lạp rút khỏi Champa, là bắt đầu thời kỳ hưng thịnh của vương quốc này.
Kinh đô Trà Kiệu và thánh địa Mỹ Sơn có thể được xây dựng từ thế kỷ thứ IV, Thánh địa Mỹ Sơn nằm cách Trà Kiệu khoảng 30 Km về phía tây. Đó là một thung lũng nhỏ đường kính ước chừng 2 Km, phía đông là núi Sulaha, phía nam là núi Mahaparvata, phía tây là núi Kusala, những ngọn núi bao quanh và chỉ có một lối vào duy nhất là theo con đường độc đạo nằm giữa hai quả đồi phía bắc, hai quả đồi này tạo thành cái cửa ngỏ như một cái chốt phòng ngự cao khoãng 30 mét với một con suối nằm chắn ngang trước mặt, con suối chảy quanh co theo sườn núi phía bắc, rồi đâm thẳng vào phía trung tâm, nó chạy vòng quanh tạo thành một thủy lộ lưu thông cho toàn bộ khu vực.
Du khách sau khi băng qua suối đi dọc theo một con đường ngoằn nghèo khoảng 3 Km về hướng nam thì đến khu vực đền tháp với các công trình kiến trúc và điêu khắc phong phú, đa dạng nhất của nền văn hóa Champa.
Ấn tượng dầu tiên mang đến cho du khách là sự hoang tàn đổ nát của các ngôi tháp, sự rệu rả của các kiến trúc trước sự tàn phá của thời gian từ hằng bao nhiêu thế kỷ không được chăm sóc tu bổ đến đau lòng : Cỏ dại, dây leo dưới chân tháp, cây tầm gởi, hoa lau ở trên nóc. Vương vãi mặt đất ; đá, gạch ngỗn ngang, loang lổ trên tường rêu mốc thời gian. Tượng đá hình người vết thương đầy rẫy kẻ mất đầu người cụt tay, chốn thì còn đầu mà người đã mất. Hoa văn gạch đỏ, sa thạch tượng đài lổ chỗ nắng mưa... Trong cái điêu tàn đổ nát đó lác đác đôi ba cái tháp hình thù dáng vẻ chưa bị phá hủy biến dạng hoàn toàn, vẫn còn giữ lại cái cốt cách độc đáo, đa dạng và phong phú của lối kiến trúc đặc biệt văn hóa Champa cổ đại, vẫn còn vài tượng đài, bi ký ghi chép lịch sử hình thành khu thánh địa thiêng liêng Mỹ Sơn này. Trong số đó có tháp mang số B5 theo phân loại của nhà khảo cổ học người Pháp, ông H.Parmentier vào năm 1903-1904.
Ngôi tháp này có mái cong hình thuyền khác hẳn với các ngôi tháp khác là có đỉnh hình chóp nhiều tầng trong thánh địa cũng như ở các nơi.
Đáy của ngôi tháp này có hình chữ nhật, của chính quay mặt ra hướng bắc, hai bên hông đều có cửa sổ, tháp có hai phần, phần dưới có mái che, cửa chính lệch về bên phải gồm có tiền sảnh, bậc cấp đi lên và vòm che chống đở bằng hai trụ đứng, mặt trước của mỗi trụ chia làm 3 ô nằm trên một chân đế hình vuông vững chắc, còn lại có tất cả 6 trụ áp tường chia mặt tiền của tháp ra làm 5 ô, trong mỗi ô có tượng hình người đứng chắp tay, phần trên trụ có 3 gờ nổi, chân trụ là đầu voi.
Phần trên của tháp nằm chồng lên mái, mặt tiền có 8 trụ đứng, phần trên các trụ này có 4 gờ xếp lên nhau chia cắt phần mặt tiền thành các ô ngang dọc lạ mắt trong ô có trang trí hoa văn. Riêng phần trụ áp tường ở các góc có kích thước lớn hơn.
Mái hình thuyền, hơi cong hai đầu, lõm ở giửa, diện tích toàn bộ của mái bằng diện tích của phần trên tháp nên nhìn ở xa ngôi tháp có một thiết kế rất lạ gồm có mái cong hình thuyền, phần trên tháp trang trí chia cắt bởi 8 hàng cột và phần dưới tháp là các ô có hình người đứng thẳng.
Mặt hông của tháp quay về hưóng đông tây, đỉnh tháp là một vòm chóp nhọn hình búp sen được nâng bởi một dãy trụ áp tường.
Trang trí là phần độc đáo của ngôi tháp này, ngoài kiến trúc mái tháp không nhọn có nhiều tầng như các ngôi tháp khác mà là một mái cong hình thuyền.
Chân tháp đã bị phá hủy tuy nhiên vẫn còn sót lại 3 tượng có hình đầu voi với vỏi thả xuống đất, phần trên các đầu voi này là một tòa sen trên có hình người đứng thẳng vai ngang hai tay chắp vào nhau, thân được chạm thẳng vào tường tháp, đầu đội mũ 3 tầng, hình người thứ ba trong hình còn thấy rõ có râu dài, trông xa thì thấy giông nhau nhưng nhìn và phân tích kỹ trong 5 tượng người được trang trí trong các ô có vòm che thì không có cái nào giống cái nào chỉ cần để ý các chi tiết ở bàn chân, hoa văn, nếp gấp của áo quần, kích thước chiều cao và chiều ngang của vai...
Phần trang trí vòm và thân tháp phía đông và tây là các bức tranh điêu khắc chạm trổ hài hòa và sinh động với các cột trụ chống ở góc hay áp tường.
Ngôi tháp này được xem như ngôi tháp còn tương đối nguyên vẹn nhất trong Thánh địa Mỹ Sơn mặc dù nó bị phá hủy, một phần mái cong hình thuyền với các viên gạch bị bong ra trơ lại lớp đất nung bên trong nhiều nhất là giửa của mái phía hướng bắc, các gờ dưới của nó cũng bị sạt lở. Phần mái che cho các trụ, ô chứa hình người thì sạt lở, bong tróc không còn hình dáng trông rất thê thảm nhất là vòm che ở tiền sảnh cửa chính, còn chân tháp thì ngoài việc mất đi một tượng có hình đầu voi và các tác phẩm điêu khắc trang trí khác các viên gạch đã bong ra khỏi chân tháp để lại những ngóc ngách lỗ chỗ, môi trường tốt nhất cho các loại cây ký sinh, cỏ dại và hang cho các loại gậm nhấm.
Trong khu C1 còn có một ngôi đền nhỏ nằm phía tây của ngôi tháp có mái cong hình thuyền này, đền quay về hướng đông, nóc tháp nhọn đổ nát nhiều chỗ, các hoa văn trang trí không còn nguyên vẹn, tiền sảnh bị sập chỉ còn lại sườn của vòm cuốn dưới có tạc tượng một hình người chắp tay phần mặt bị hư hại nặng, chân đứng trên một bệ đá mà hoa văn đã bi hủy hoại, hai bên có trụ chống cho vòm cuốn trên hoa văn lá xoắn hình chữ S liền nhau, tường và các cửa giả cách nhau làm cho nó bớt nặng nề, phù hợp với chiều cao của ngôi đền làm cho nó có một vẻ đẹp vừa nhẹ nhàng vừa thanh thoát.
Cuốn sách Mỹ Sơn trong lịch sử nghệ thuật Chăm kể lại: Trong chỗ sâu kín của ngôi đền này vào khoảng năm 1904, những nhà khảo cổ học đã sưu tầm được một bộ trang sức bằng vàng, đầy đủ dành cho một pho tượng lớn cỡ nửa người thường. Kiểu thức hoa văn trang trí cho biết nó thuộc phong cách Đồng Dương. Đây là một bộ trang sức bằng vàng lá duy nhất còn nguyên vẹn tìm thấy trong nghệ thuật Chăm. Nó từng được đem trưng bày tại Hội Chợ Marseille năm 1926.
Bộ trang sức này được chế tác bằng những miếng vàng không dày lắm, gồm một cái mũ Kirita-Mukuta, trang trí 5 đóa hoa lớn, phía trên có đính một viên hồng ngọc, phía sau có một miếng che lấp gáy, hai miếng che sau tai và một vòng hào quang sau đầu hai hoa tai, một vòng kiềng đeo cổ, một bộ phận nịt ngang ức với bản khá lớn, đồ đeo ở hai vai là hai đóa hoa lớn, hai vòng đeo ở cổ tay và chân có bản lớn, một sợi dây chuyền cổ, các vòng đeo được móc lại với nhau bằng những cái khóa. Tất cà các miếng vàng này được chạm trổ hết sức tinh tế và điêu luyện.
Bộ trang sức này dùng để đeo cho các tượng thần bằng sa thạch hoặc bằng đồng khi hành lễ, ngày thường chúng được tháo ra và cất giử cẩn thận. Bi ký Chăm tại Mỹ Sơn đã nhiều lần nhắc đến bộ lễ vật này được dâng cúng bởi các vua Chăm.
Hiện tại bộ trang sức này đang ở đâu và ai là chủ nhân của nó? Đó là điều mà nhiều người muốn biết, muốn chiêm ngưỡng nó.
Con người đã lấy đi rất nhiều thứ từ khu Thánh địa này với rất nhiều lý do! Hiện tại tổ chức UNESCO thừa nhận nó là một di tích lịch sử của nhân loại, hãy trả lại cho khu Thánh địa Mỹ Sơn những gì của nó, đó cũng là lòng tự trọng của con người chứ không phải sợ một lời nguyền của vua Bhadravarman đệ nhất là người khởi công xây dựng thánh địa này với những lời nguyền như sau: "... Nếu có kẻ nào dùng vũ lực để chiếm đoạt hay phá hủy... thì nhân dân không phải tội, mà tội lỗi sẽ dành cho kẻ đó... "
Hồ Đắc Duy