Thứ Năm, 2 tháng 8, 2012

MỘT BẢN PHỔ CHÍ NÓI VỀ QUAN HỆ VIỆT - CHĂM

 MỘT BẢN PHỔ CHÍ NÓI VỀ QUAN HỆ VIỆT - CHĂM


Võ Văn Thắng


kỳ 1:



I. GIỚI THIỆU
            Trong các tài liệu có tính chất phổ thông, nước Chiêm Thành (hay Champa) thường được nhắc đến như là một vương quốc hình thành ở vùng đất miền Trung Việt Nam, từ khoảng thế kỷ II và tồn tại đến thế kỷ XVII. Lãnh thổ của vương quốc này ở thời kỳ rộng lớn nhất bao gồm từ Quảng Bình đến Bình Thuận ngày nay. Lịch sử của nước Chiêm Thành được viết chủ yếu dựa theo các nguồn tư liệu của các nhà du hành và sử gia Trung Quốc, cùng một số văn bia chữ Phạn và chữ Chăm.
 
            Tuy nhiên, trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu về Đông Nam Á và Việt Nam muốn xác định lại khái niệm Champa. Theo đó, không nên hiểu Champa như một quốc gia với một lịch sử mạch lạc và liên tục do các sử gia thế kỷ XX khái quát nên. Champa được nhìn nhận như là một từ chỉ chung cho nhiều vương quốc hoặc nhiều tiểu quốc cùng tồn tại ở dải đất miền Trung và có những thời kỳ thịnh suy không đồng đều.[1]
 
            Cách nhìn này có tác dụng gợi mở một số giả thuyết mới trong việc nghiên cứu văn minh Champa, đồng thời cũng thúc đẩy việc tìm kiếm thêm những nguồn tư liệu mới.
            Bài viết này giới thiệu một bản phổ chí hiện được cất giữ trong một gia đình ở một làng miền Trung Việt Nam, trong đó chứa đựng những thông tin mới mẻ về mối quan hệ Việt - Chăm và về sự hình thành cư dân ở miền Trung Việt Nam vào thế kỷ XIV, XV.
            Bản phổ chí được viết bằng chữ Hán, gồm 24 trang khổ 15 x 30. Ở trang đầu có ghi dòng chữ lớn: Đà Sơn, Đà Ly nhị xã Phan tộc phổ chí (Phổ chí của tộc Phan hai làng Đà Sơn và Đà Ly).   
            Dòng đầu của phổ chí cho thấy phổ chí này được viết vào năm 1806.[2]
 
           Từ trang 2 đến trang 7 là phần lược thuật về lịch sử của tộc, trong đó nói rằng tổ tiên của tộc đã từng là người đứng đầu của một vùng. Từ giữa trang 7 đến trang 24 là phần liệt kê các thế hệ tổ tiên của tộc, bắt đầu từ ông tổ chết vào đầu thế kỷ XV, được xem là đời thứ nhất, đến ông tổ đời thứ mười ba. Cuối tập phổ chí, những người biên soạn tự xưng là con cháu thế hệ mười bảy.
 
II. PHIÊN ÂM, DỊCH VÀ CHÚ THÍCH
 
            Trong phạm vi một bài viết, chúng tôi xin chọn giới thiệu 7 trang đầu và một trang về vị tổ đời thứ ba, là phần chứa nhiều thông tin mới lạ nhất trong tập phổ chí.
            Chúng tôi muốn được lưu ý là: Bản phổ chí có khá nhiều chi tiết xem ra có vẻ phi lý và nhầm lẫn, tuy nhiên, nếu được xử lý như một nguồn tư liệu dân gian, thì có khi những điều phi lý, nhầm lẫn lại trở nên chấp nhận được và có ý nghĩa.
 
Phiên âm:
 
Đà Sơn Đà Ly nhị xã Phan tộc phổ chí.
            Gia Long bính dần ngũ niên tứ nguyệt thập tứ nhật. Phan tộc Đà Sơn xã trưởng phái tự tôn Phan Tấn Nguyên, Đà Ly xã thứ phái tự tôn Phan Hữu Nga, đồng bổn tộc đẳng.
Nhơn vì
Tiên công cao cao tổ huý nhật hội tề truy lục tộc phổ sự.
Truy tư ngã thuỷ tổ Lạc hoàng sinh hạ ngã tộc. Thượng cổ thời cựu/phấn tích tại Thanh Lam động, hiệu Việt Thường bộ, trung cổ di vu Lâm Châu (kim Lâm Bình địa), cận cổ di vu Đà Bàn (kim Bình Định địa) cải hiệu Chiêm Thành quốc, yểm hữu Thanh Hà (kim Thanh Hoa địa) dĩ nam chí Thạch Bi động (kim Thuận Thành địa) kế thế tương truyền quốc chủ hữu lục thập bát thế kỷ (cựu thổ âm xưng dung anh). Phàm tôn tộc thế hệ giai dụng khoa đẩu tự biên lục.
Đãi ngã hậu chúa cống sứ Trung Hoa, mục đỗ Trung Hoa văn hoá dĩ triêm nhập ngã lân bang chi Giao Chỉ, Tượng Quận đẳng bộ, gia gia kinh sử, xứ xứ canh vân, phi như ngã quốc tục tiễn mộc, bá hoà, phần sơn thực mạch chi lậu tập giả tỉ. Chúa tâm khoái mộ, nhơn triệu Trung Hoa tú sĩ sổ thập bối, dẫn hồi giáo ngã tôn tộc quốc dân.
Hậu chúa niên lão, sách hoàng trưởng tử vi Phó chúa, sai tú sĩ Trịnh Giác Mật phụ đạo Phó chúa tại Đà Giang biệt trướng. Hậu chúa hoằng ai báo chí nguỵ Mật (x) sát Phó chúa, tự lập vi Đà Giang quốc vương.
Ngã Tiên công thị hậu chúa hoàng đệ, văn nguỵ Mật nội hữu thập bối tú sĩ, ủng binh thanh ứng, ngoại hữu Tàu ô, Ngô binh trấn chư hải khẩu, ngã Tiên công liệu lực bất chi, nãi uỷ Thượng Thành động (kim Qui Nhơn đồn) Bí động trưởng thủ quốc, công phụng quốc tỉ, đồ tịch, tộc phổ bôn Giao Chỉ cầu yết Trần chúa khất sư trụ Mật. Trần chúa giá dĩ quốc nữ, khuyến công lưu cư, sai tướng phù Mật thu Đà Giang địa.
Quốc nội nha tướng hiệp chư châu trưởng, động trưởng ủng lập Bí động trưởng vi quốc chúa. Như Trần cầu hôn, Bí chúa nhập nhoá, nha tướng Sạ Đẩu tiếm xưng quốc chúa, cử binh cự Trần, tranh Đà Giang địa.
Trần chúa nộ, hưng sư tiến thảo, phù hoạch Sạ Đẩu.
Thời Trần quan binh vãn ngã quốc, kiến quốc tục hủ lậu, hồi thân, Trần chúa khuyến ngã Tiên công cập Bí chúa quân dĩ quốc tế phong quan tước, hồi hiểu thổ trưởng, tù trưởng thuận hiệp Chiêm Thành, Giao Chỉ vi nhất quốc tỉ đắc đồng hoá, sĩ trí phú cường, lánh phân chủ trị.
Ngã Tiên công tự niệm dĩ ngã quốc chúa hoăng, tướng bạn, địa tước dân bần, thế nan tự chủ, thỉ thính Trần chúa chi ngôn.
Trần chúa thụ ngã Tiên công dĩ Đô chỉ huy sung thập tam châu kinh lược chiêu dụ xử trí sứ.
Công lãnh chỉ hành hiểu các châu động quan dân hàm giai quy thuận. Công thân hồi thỉnh cấp ngưu canh điền khí tịnh thỉnh phát Giao Chỉ sảo thức văn tự nhàn thục nông nghiệp chi dân. Hứa công lãnh tựu các xứ thiết lập trang trại phân trú, (x) tập ngã thổ dân dĩ văn tự canh giá đẳng sự.
Công cải các châu tù trưởng vi lệnh doãn quan, trí các động trưởng, lại trưởng vi cai trại tri thâu đẳng chức. Mỗi trại cấu thương lượng trữ điền túc chi cấp quan dân cập hoà ương điền khí đẳng chủng.
Vãn Trần Trùng Quang nhị niên, thổ dân tiến hoá ước dĩ thái bán, công thân thỉnh phân Hoá Châu tự ải Vân Trà Ngâm động (kim Câu Đê xã) dĩ nam chí Trà Khúc động (kim Tư Nghĩa phủ) lập nhứt Đà Bàn huyện (chỉ cải Điện Bàn huyện địa, kim quát tận Quảng Nam dinh tứ chí), thiết điền số thượng hạ nhị tổng, mỗi tổng cai trị thập xã, mỗi xã khán thủ tam ngũ thập trại. Đinh tắc Giao dân, thổ dân đồng nhứt ngạch tịch. Địa tắc công tư điền thổ các biệt phân canh. Tồn như thổ dân gián hữu chấp mê cổ tục bất thuận tùng hoá dã, tắc thính biệt thôn sách, các trí phu trưởng kiểm thủ dĩ biểu nhứt thị đồng nhơn chi nghĩa.
Thân văn, Trần chúa gia tưởng vân: thác thổ khai canh bất phụ chỉ huy chức trách, hoá dân thành tục, quả thù xử trí quyền nghi, chỉ tứ Thành hoàng tướng quân Thuận quốc công tước, cấp hứa trại điền tự Trà Ngâm động chí Lầu Cấu (kim Quan Quê xã), Nội Đồng (kim Đà Ly xã), Trà Na (kim Đà Sơn xã), Nô Cố (kim La Bông, La Châu, Phú Sơn tam xã), Đồng Quan (kim Cẩm Toại xã), Phủ Thượng (kim Tích Phú xã) đẳng động cai ngũ thập trại, nhận thâu lương túc dĩ cung gia quyến chi nhu, truyền tử lưu tôn vĩnh vi thế lộc.
Thiểu đáp gia huân, dụng chiêu (x) mạng, công cụ xuất sản bửu hoá cống tạ, thân khất cáo lão trí sự, thừa chỉ sai nhị công tử đại lãnh phụ tước kinh lược các châu động trại, thính tự quyền nghi, tuỳ địa xử trí doãn hiệp cai phụ tiền mao hiệu thành trọng thưởng. Nhị công tử lãnh chỉ thời ngã tiên công hồi thiết tư phủ tại Đà Sơn xã, Trà Na trại, công trí các cai trại Kiều Lệnh vi xã trưởng, cựu động trưởng Đỗ Tuyết vi tri thâu, Nguyễn Đăng khán thủ tuỳ hầu công phủ.
Trưởng công tử (Công Chánh) thiết công phủ tại Đà Câu xã (kim cải Lạc Câu), thứ công tử (Công Nhâm) thiết công phủ tại Nội Đồng trại (kim Đà Ly xã) thiết huyện nha tại Kỳ La trại (kim Đà Ly địa).
Cập văn Hồ tướng quốc di Trần tộ, Tiên công triệu nhị công tử hồi, vị: nhị tử hệ Trần ngoại sanh, Trần tộ nhược di, tảo liệu như hà dĩ miễn hoạ cập.
Trưởng công tức thân thỉnh thị dưỡng song thân từ chức tỵ nạn, gia quyến nhưng cư Đà câu phủ đệ, công hồi tùng phụ thị dưỡng.
Thứ công tận thâu trại tịch, tiến yết Hồ công, trá xưng bái hạ tân chánh, phụng lãnh Hồ triều chỉ mạng dĩ tỵ hiềm nghi.
Hồ công tứ yến, nãi chỉ sai công nhận Giao Chỉ lưu dân, giải Trần tôn thất, Ngô bạn dân, phân tháp các trại khẩn điền. Công niệm dĩ Trần hệ mẫu tộc, công tuân nhận, hồi xuất thương túc, sức cấu gia cư, mỗi táo cấp điền ngũ mẫu hoặc thất mẫu quản nghiệp.
Hồ Khai Đại nhị niên, công thân tự tiền thiết mỗi xã kiêm khán tam ngũ thập trại, kim thừa phân tháp Trần dân, Ngô dân dữ tứ chánh lưu dân tấu tập nhật đa, nhứt xã chi trưởng nan năng châu tất, thỉnh hứa công lượng tuỳ mỗi trại điền thổ quảng hiệp, hộ khẩu đa thiểu, cải trại vi xã, thôn, phường, ấp, các trí xã trưởng cai trị tỷ dị kiềm phòng.
Hồ công doãn hứa. Công nãi cải trại, tăng thiết tổng xã, hựu cải Nội đồng, Kỳ La, La Hồng đẳng trại vi Đà Ly xã, trí động truởng cai trại Phùng Văn Mươi vi xã trưởng, cựu xã trưởng Ung Văn Lào vi tri thâu, khán thủ công vụ (công chủ các tổng xã, tự chỉ tuy tồn nhưng bất biên nhập ( ) bổn tộc phổ ngoại).
Khai Đại tam niên tứ nguyệt thập tứ nhật, Tiên công hoăng, công hồi cư tang, tứ niên chánh nguyệt sơ thất nhật tiếp ngộ mẫu tang, công suất gia quyến lưu cư Đà Ly phủ đệ, công dữ công huynh đồng cư vu tiên công phủ đệ dĩ chí chung lão.
Tư bổn tộc niệm dĩ ngã tộc nguyên cư đồng căn, tán cư tứ chánh, thiên các nhất phương, nhược vô phổ chí, hậu thế thất truyền, khủng chí vân nhưng vong khước thân thân chi nghĩa, nãi đồng hội kê thượng cổ, trung cổ, cập cận cổ thế hệ, tắc tự biên khoa đẩu.
Tự ngã Tiên công quy Trần chi nhật Trần triều nghi ngã dân hữu biệt dạng tự chỉ, khủng sinh biệt dạng âm thư, nghiêm cấm học Chiêm văn tự, trí kim cựu phổ tuy tồn kim bất thức tự, thất tường cổ nhân danh tích, chỉ đồng mặc ký ngã liệt tiên tổ di ngôn, lược trần sự khoản, lưu chiếu kỳ Lạc Câu, Trà Sơn, Trà Kiệu, Bảo An, An Hoà, Bàn Lãnh, Câu Nhí, Phú Sơn, Tích Phú, Câu Đê, Quan Quê, Hoá Quê, nguyên dữ ngã đồng tông chi các Phan tộc tộc trưởng.
Kim nhật toàn vô hội diện, trí nan tường cứu hiệp biên, triếp cảm cung thự ngã tiên công vi đệ nhất đợi cao tổ, cẩn tuỳ thế thứ lịch kê vu hậu, tỷ ngã hậu nhân y thức tục biên lưu thuỳ vạn đợi vĩnh viễn vô cương, tư cung lục.
Đệ nhất đợi cao cao tổ khảo khai lập Điện Bàn huyện, Trần phong Thành hoàng Thuận quốc công Phan Công Thiên tiên công chi vị.
(Thường niên chánh nguyệt sơ lục nhật lễ sinh, tứ nguyệt thập tứ nhật lễ kỵ)
Mộ táng xã nội Nhiêu Trà Na xứ, Phan Địch thổ.
.. .. ..
Đệ tam đợi cao tổ khảo Lê phong Thuận Hoá hầu Phan Công Minh quí công chi vị .
(Nhị nguyệt sơ tứ nhật lễ sinh, thập nhị nguyệt sơ bát nhật lễ kỵ)
Mộ tại Bàu Môn thượng xứ, thổ phụ.
.. ..
Công thiếu chí bất thần Hồ, thường du lương túc trạch văn võ chi tinh nhuệ giả, cấp thực phân giáo tự Điện Bàn dĩ nam các xứ hoàng đinh, cường giả tập võ, nhược giả học văn, tự thất bát tuế chí thập thất bát tuế nhi đồng thành đạt giả đa số.
Công đệ trách dĩ hư phí, công vị: ngã thị Chiêm chủng, vi Trần ngoại tôn, tư Trần hữu tru di ngụy Mật, nghịch Đẩu chi công, doãn thù quốc phẫn, bất cảm bội đức cam thọ thử thập tam châu vi vô chủ chi khư, ngã thổ địa, ngã nhân dân phi Hồ tặc sở đắc nhi hữu, khước cảm nhưỡng đoạt, huỷ ngã tổ quốc động tháp, phúc ngã ngoại tổ tôn lăng, ngã khởi cam tâm toạ thị, ngã sĩ binh tinh thực túc, ngã quyết thừa cơ thu phục cố địa.
Tiếp văn Lê hoàng khởi nghĩa, công vị: Lê chủng bổn Thanh Lam động nhân, đồng ngô Chiêm môn, công tức xuất xi biến dụ các châu huyện bị biện lương tiền cập sơn hải sản thực cống hiến Lê binh, tuyển nạp tráng sĩ tùng Lê vũ dực, Lê chúa nhậm tạ.
Cập Lê đại định, hậu tứ phong công dĩ hầu tước.

______________________________________
 
1] Xem: Keith W. Taylor, The Early Kingdoms, in Nicolas Tarling (ed.) The Cambridge History of Southeast Asia, Vol I, Cambridge University Press, 1994, tr 153.
- Trần Quốc Vượng, Miền Trung Việt Nam và Văn Hóa Champa, Tạp chí Nghiên Cứu Đông Nam Á, số 4/1995, tr. 8-24.
 [2] Căn cứ vào loại giấy, dạng chữ viết, nội dung văn bản và sau khi tham khảo ý kiến của một số nhà chuyên môn, chúng tôi tin rằng niên đại này là đúng.

Kỳ 2:
Dịch nghĩa:
            Phổ chí tộc Phan hai làng Đà Sơn và Đà Ly Ngày mười bốn tháng tư năm Bính Dần, niên hiệu Gia Long năm thứ năm[1]. Ông Phan Tấn Nguyên, là cháu tự tôn của phái trưởng tộc Phan làng Đà Sơn[2]. Ông Phan Hữu Nga, là cháu tự tôn của phái thứ tộc Phan làng Đà Ly[3]. Cùng các ông trong tộc Phan. Kê Nhơn vì Nhân ngày lễ kỵ Tiên công cao cao tổ, cùng nhóm họp lại để làm việc truy lục tộc phổ. 
            Nhớ lại, thuỷ tổ chúng ta là vua Lạc sinh ra tộc chúng ta. Thời thượng cổ sinh sống tại động Thanh Lam[4], hiệu là bộ Việt Thường[5], thời trung  cổ dời vào Lâm Châu (nay là đất Lâm Bình[6]), thời cận cổ lại dời vào Đà Bàn (nay là đất Bình Định), đổi hiệu là nước Chiêm Thành, bao trùm cả Thanh Hà (nay là đất Thanh Hoa), về nam tới động Thạch Bi (nay là đất Thuận Thành[7]), tiếp nối các đời làm chủ đất nước, gồm 68 thế kỷ (đất cũ thổ âm gọi là “dung anh”). Các thế hệ đều dùng chữ khoa đẩu[8] để biên chép.
Đến lúc ông hậu chúa chúng ta đi sứ triều cống Trung Hoa, thấy tận mắt nền văn minh Trung Hoa đã thâm nhập vào các lân bang của chúng ta là hai bộ Giao Chỉ và Tượng Quận, nhà nhà kinh sử, xứ xứ cày bừa, không như tập tục lạc hậu của nước ta chỉ biết đốn cây, gieo lúa, đốt núi trồng ngô.
Chúa lấy làm khoái mộ, nhơn đó mời vài mươi “tú sĩ’’ (người tài giỏi) Trung Hoa đưa về bày dạy cho dân trong nước ta. Hậu chúa già, giao cho con trai cả làm Phó chúa, sai tú sĩ Trịnh Giác Mật theo giúp Phó chúa tại dinh riêng Đà Giang. Khi nghe tin Hậu chúa chết, ngụy Mật bèn giết Phó chúa, tự lập làm vua nước Đà Giang.
Tiên công chúng ta là em ruột hậu chúa, nghe tin ngụy Mật bên trong thì có mấy mươi tú sĩ hò hét ủng hộ, bên ngoài thì có lính Ngô, lính Tàu ô trấn giữ các cửa biển, tiên công ta liệu sức không thể chống lại được, bèn uỷ quyền cho ông Bí, động trưởng động Thượng Thành (nay là đồn Quy Nhơn) giữ nước, còn Tiên công mang quốc ấn và các giấy tờ sổ sách của tộc chạy sang đất Giao Chỉ, tìm đến vua nhà Trần, xin binh tướng về diệt Mật.[9]
Vua nhà Trần gả (cho tiên công) một quốc nữ [10] và khuyên tiên công ở lại, rồi sai tướng đi đánh bắt ngụy Mật thu hồi đất Đà Giang.
Trong nước, các tướng họp với các ông châu trưởng, động trưởng tôn lập ông Bí động trưởng làm quốc chúa. (Ông chúa Bí) cầu hôn nhà Trần, khi ông chúa Bí đi làm rể, viên tướng Sạ Đẩu chiếm ngôi quốc chúa, cử binh đánh Trần, tranh đất Đà Giang.
Vua Trần tức giận, cử binh đánh bắt được Sạ Đẩu[11].
Quan binh nhà Trần đến nước ta, thấy phong tục nước ta lạc hậu, trở về tâu vua, vua Trần khuyên Tiên công ta và Bí chúa nên theo phép rể của nhà vua mà lãnh quan tước trở về bàn với các ông thổ trưởng, tù trưởng thuận hiệp Chiêm Thành và Giao Chỉ thành một nước để cùng tiến hoá đợi đến lúc giàu mạnh sẽ chia ra tự chủ.[12]
Tiên công ta tự nghĩ rằng nước ta chúa đã chết, tướng làm phản, đất hẹp, dân nghèo, thế khó tự chủ, nên nghe theo lời vua nhà Trần.Vua Trần phong cho Tiên công chúng ta chức Đô chỉ huy kinh lược chiêu dụ xử trí sứ coi trong mười ba châu.[13]
Ông lãnh chỉ đi chiêu dụ, quan dân các châu động đều quy thuận.Ông trở về xin (vua Trần) cấp trâu bò, dụng cụ làm nông đồng thời xin một số dân Giao Chỉ đã thuần thục nghề nông và biết một ít chữ nghĩa. Vua nhà Trần cho ông trông coi các xứ, thiết lập trang trại chia nhau để ở, dạy cho thổ dân chúng ta học hành và cày cấy. Ông đổi các chức châu trưởng, tù trưởng thành chức lệnh doãn quan, đặt các chức động trưởng, lại trưởng thành các chức cai trại, tri thâu.  Mỗi trại dựng kho để chứa lúa dùng vào việc chi cấp cho quan và dân và chứa các thứ lúa giống, nông cụ.
Đến năm thứ hai niên hiệu Trùng Quang[14], ước hơn nửa số dân trong xứ đã tiến hoá, công thân thỉnh phân Hoá Châu từ động Trà Ngâm Aỉ Vân (nay là làng Câu Đê[15]), phía nam đến động Trà Khúc (nay là phủ Tư Nghĩa[16]) lập một huyện Đà Bàn (chỉ của vua sửa lại là huyện Điện Bàn[17], nay bao quát toàn bộ dinh Quảng Nam), chia số  ruộng đất ra làm hai tổng, thượng và hạ, mỗi tổng cai trị mười xã, mỗi xã trông coi vài mươi trại. Về dân số thì dân Giao Chỉ và dân địa phương cùng chung một ngạch tịch, về ruộng đất thì phân ra các loại công điền, tư điền và đều chia ra để canh tác. Trong số dân địa phương, có người còn chấp mê tập tục cũ, không thuận theo sự khai hoá ấy thì chia ra ở riêng thôn sách có các phu trưởng kiểm tra, quản lý, nêu ra cách đối đãi coi mọi người như nhau. Vua nhà Trần gia khen rằng: Mở mang, khai khẩn đất đai, không phụ chức trách chỉ huy, giáo hoá nhân dân thành nề nếp xứng đáng với quyền nghi xử trí, ban tước “ Thành hoàng tướng quân thuận quốc công”, cấp cho trang trại ruộng đất từ động Trà Ngâm cho đến các động Lầu Cấu (nay là làng Quan Quê), Nội Đồng (nay là làng Đà Ly), Trà Na (nay là làng Đà Sơn), Nô Cố (nay là ba làng La Bông, La Châu, Phú Sơn), Đồng Quan (nay là làng Cẩm Toại), Phủ Thượng (nay là làng Tích Phú)[18] cai quản 50 trại, thu nhận lúa thóc để chi dùng cho gia quyến, truyền cho con cháu muôn đời hưởng lộc. Để đền đáp ân huệ của vua, ông mang các thứ sản vật quý để cống tạ, và xin được nghỉ vì tuổi già.
Vua giao cho hai con của ông lãnh chức tước của cha, kinh lược các châu động trại, toàn quyền xử lý các việc  địa phương, kế tục được các việc của cha thì sẽ được trọng thưởng. Hai người con nhận lãnh chỉ của vua. Tiếp đến, Tiên công chúng ta về dựng tư phủ tại trại Trà Na làng Đà Sơn, cử các ông cai trại Kiều Lệnh giữ chức xã trưởng, cựu động trưởng Đỗ Tuyết giữ chức tri thâu, ông Nguyễn Đăng làm khán thủ  lo việc trong phủ.[19]
Ông con trai trưởng (Công Chánh) dựng công phủ tại làng Đà Câu (nay đổi thành Lạc Câu), ông con trai thứ (Công Nhâm) dựng công phủ tại trại Nội Đồng (nay là làng Đà Ly) đặt huyện nha tại trại Kỳ La (nay là đất Đà Ly).
Đến khi nghe viên tướng họ Hồ dời đổi  ngôi nhà Trần[20], Tiên công gọi hai con về, nói: hai con là cháu ngoại nhà Trần, nhà Trần đã bị suy yếu, dời đổi, hai con ắt nguy, hãy sớm lo liệu cách nào để khỏi gặp hoạ.
Ông con trưởng lập tức xin từ chức, lấy cớ về nuôi cha mẹ, để tránh nạn. Gia quyến thì vẫn ở chỗ cũ là dinh phủ Đà Câu, còn ông về hầu hạ cha, Ông con trai thứ thâu hết giấy tờ sổ sách đến yết kiến quan nhà Hồ, nói dối là chào mừng chính quyền mới và vâng lĩnh công việc triều Hồ để tránh hiềm nghi.
Viên quan nhà Hồ thiết đãi yến tiệc rồi giao cho ông nhận số lưu dân Giao Chỉ, tha dòng tôn thất nhà Trần, dân phản nhà Ngô chia ở các trại để khẩn ruộng. Ông nghĩ đến tộc Trần là tộc mẹ, ông bằng lòng nhận lời, về xuất lúa trong kho, cho làm nhà để ở, mỗi bếp cấp năm, bảy mẫu ruộng để quản nghiệp[21].
Năm thứ hai niên hiệu Hồ Khai Đại[22], nguyên từ trước ông đã đặt mỗi xã kiêm quản vài mươi trại, nay thừa lệnh phân cho dân đến ở, dân Trần, dân Ngô cùng dân tứ phương đến ở ngày một nhiều, một vị xã trưởng khó lòng châu tất việc quản lý, ông xin cho được phép tuỳ ruộng đất mỗi trại rộng hay hẹp, hộ khẩu nhiều hay ít mà đổi trại thành xã hoặc thôn, phường, ấp, và đều đặt các ông xã trưởng cai trị để dễ kiềm phòng. Quan nhà Hồ chấp thuận. Ông bèn đổi trại thành tổng xã rồi đổi các trại Nội Đồng, Kỳ La, La Hồng thành Đà Ly xã, đặt ông động trưởng cai trại Phùng Văn Mươi làm xã trưởng, ông cựu động trưởng Ung Văn Lào làm tri thâu, trông coi công việc của xã ( phần ông trông coi hết các tổng xã, giấy tờ tuy còn nhưng không biên vào tộc phổ).
Năm thứ ba niên hiệu Khai Đại[23], tháng tư ngày mười bốn, Tiên công qua đời, ông về cư tang. Năm thứ tư, tháng giêng ngày mùng bảy, tiếp gặp tang mẹ, ông để gia quyến ở lại phủ đệ Đà Ly, còn ông và ông anh về ở phủ đệ của Tiên công cho đến cuối đời.
Lúc bấy giờ trong tộc nghĩ rằng tộc ta nguyên thuộc cùng một gốc, nay rải rác ở tứ phương mỗi người một ngả, không có phổ chí thì đời sau thất truyền, sợ đến nỗi quên mất cái nghĩa bà con, bèn cùng kê các đời từ thượng cổ, trung cổ cho đến cận cổ đều viết bằng chữ khoa đẩu.[24]
Kể từ thời Tiên công ta về với nhà Trần, triều Trần nghi dân ta có dạng chữ riêng, sợ sinh ra có tiếng nói và sách vở khác biệt , nên nghiêm cấm việc học chữ Chiêm[25]. Vì thế tuy phổ chí cũ vẫn còn, nhưng nay không biết chữ nên không phân biệt rõ được danh tích của người xưa, chỉ cùng lặng lẽ ghi lại những lời truyền miệng của liệt vị tiên tổ, trình bày sơ lược sự việc, lưu chiếu tại Lạc Câu, Trà Sơn, Trà Kiệu, Bảo An, An Hoà, Bàn Lãnh, Câu Nhí, Phú Sơn, Câu Đê, Tích Phú, Quan Quê, Hoá Quê ở các vị tộc trưởng tộc Phan cùng gốc chúng ta.
Hôm nay không họp mặt hết được nên không thể tra cứu tường tận để biên chép đầy đủ, bèn kính cẩn tạm đặt Tiên công ta làm vị cao tổ đời thứ nhất và tuỳ theo thứ tự các đời sau mà liệt kê tiếp theo, để cho con cháu sau này y theo thể thức đó mà biên chép nối theo, lưu truyền mãi muôn đời về sau không dứt.
Nay cung kính biên chép.
Đời thứ nhất; cụ ông cao tổ, khai lập huyện Điện Bàn, (triều) Trần phong tước Thành hoàng Thuận quốc công, tên huý là Phan Công Thiên. (Hàng năm, mùng 6 tháng giêng lễ sinh, mười bốn tháng tư lễ kỵ). Mộ chôn trong làng, xứ đất Nhiêu Trà Na, đất thổ Phan Địch.
.. .. ..
Đời thứ ba: cụ ông cao tổ, triều Lê phong tước Thuận Hoá hầu, tên huý là Phan Công Minh ( Mùng bốn tháng hai lễ sinh, mùng tám tháng mười hai lễ kỵ). Mộ tại xứ Bàu Môn Thượng, đất gò.
.. ..
Ông thưở nhỏ chí không phục nhà Hồ, thường tuyển chọn người tinh nhuệ văn võ cấp lúa gạo để dạy cho lớp trai tráng các xứ từ Điện Bàn vào Nam, người khoẻ thì học võ, người yếu thì học văn, thiếu niên từ bảy, tám tuổi đến mười bảy, mười tám tuổi thành đạt rất nhiều.
Em ông trách ông phí công, phí của. Ông nói: Chúng ta là nòi giống Chiêm, là cháu ngoại nhà Trần, nhờ nhà Trần mà diệt được giặc Mật, giặc Đẩu, rửa được mối hận của nước nhà không dám quên ơn đức (nhờ đó mà khỏi) cam chịu mười ba châu này là bãi đất trống không chủ. Đất đai của chúng ta, nhân dân của chúng ta không phải nhờ giặc Hồ mà có,  mà chúng lại dám chiếm đoạt, phá huỷ động tháp của tổ quốc ta, dày xéo lăng tẩm tổ tiên bên ngoại ta, lẽ nào ta lại đành lòng ngồi yên mà nhìn vậy sao ?
Ta đây chờ cho binh lính giỏi, lương thực đủ, ta quyết thừa cơ thu phục đất cũ.
Tiếp đến, nghe tin vua Lê[26] khởi nghĩa. Ông nói: dòng giống họ Lê gốc người động Thanh Lam[27], cùng một nòi giống Chiêm của ta, ông bèn xuất tiền của, kêu gọi các châu huyện chuẩn bị lương tiền, cùng các loại lương tiền cùng các loại thực phẩm để cống hiến cho binh lính nhà Lê.
Vua Lê trọng tạ. Đến lúc nhà Lê dựng đựoc cơ nghiệp, phong cho ông tước hầu.
.. ..
III. BÌNH LUẬN
1. Có một cách nghĩ thông thường rằng cư dân miền Trung Việt Nam hiện nay là hậu duệ của những người Việt từ các tỉnh phía bắc di dân vào trong khi cư dân Chiêm Thành bị đẩy lùi dần về phía nam. Nhưng bản phổ chí cho thấy cư dân của miền Trung Việt Nam không phải chỉ là “thuần Việt”. Một số người Chiêm Thành hay “thổ dân” đã ở lại, cộng cư, pha trộn với những người mới đến.
2.Một số nhà nghiên cứu thừa nhận giả thuyết rằng có nhiều tiểu quốc với các vị vua của từng tiểu quốc cùng tồn tại đồng thời ở Champa. Nhưng câu hỏi : “Những vị vua này là ai ?” vẫn còn là một ẩn số.[28]
            Bản phổ chí nói rằng tổ tiên của tộc thuộc “Chiêm chủng” và đã từng là “chúa”của nước Chiêm Thành. Quê hương khởi thuỷ của họ là vùng Thanh Hoá, sau đó đi dần vào phía nam cho đến lúc định cư sau cùng ở Đà Bàn. Điều này được viết theo ký ức và không phù hợp với các điều trong sử sách đã viết về lịch sử cư dân Chiêm Thành, tuy vậy ký ức ấy có thể phản ảnh một thực tế nào đó trong lịch sử. Có thể có nhiều nhóm “người Chiêm Thành” khác nhau, trong đó các nhóm sống ở bắc Champa có nguồn gốc khác với các nhóm phía nam Champa. Trong quá trình lịch sử, các nhóm phía bắc có thể đã hội nhập mạnh mẽ hơn, và gần như đồng hoá, vào một cộng đồng người Việt nói chung, trong khi đó các nhóm phía nam tiếp tục còn duy trì một số nét khác biệt và con cháu họ là những người Chăm ở các tỉnh miền nam Việt Nam hiện nay.
3. Phổ chí có nhắc lời một vị tổ đời thứ ba nói rằng ông ta “cùng chủng Chiêm” với vua Lê. Ý tưởng lạ này cũng đáng chú ý. Hiện nay, nguồn gốc tộc người của Lê Lợi vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ và có ý kiến cho rằng Lê Lợi thuộc tộc Mường. Lam Sơn, quê hương của Lê Lợi, được dân địa phương gọi theo âm cổ là “làng Cham”. [29]
            Liệu có mối quan hệ nào giữa tộc người Mường và nhóm ngươì Chàm ở vùng bắc Champa ?[30]
4.Dù cho có bao nhiêu nhóm tộc ngưòi đã sống ở Champa và dù cho văn hoá của các nhóm này có khác nhau bao nhiêu thì tất cả cũng đã hoà trộn và hình thành một văn hoá chung, ở đó khó mà phân biệt được đâu là Chiêm, đâu là Việt, đâu là những yếu tố khác. Và tất cả đã làm nên một cộng đồng cư dân với những đặc trưng văn hoá phong phú tại miền Trung Việt Nam.[31]

Tài liệu tham khảo

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tập 1, Khoa học xã hội, Hà Nội, 1983
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tập 2, Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tập 4, Khoa học xã hội, Hà Nội, 1973
Đại Nam Nhất Thống Chí, tập 2, Khoa hoc xã hội, Hà Nội, 1970
Dư Địa Chí, trong Nguyễn Trãi Toàn Tập, Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977
Hồng Đức Bản Đồ, Sài Gòn 1962.
Dohamide, Doriheim, Dân tộc Chàm lược sử, Sài Gòn, 1965.
Lê Qúy Đôn, Phủ Biên Tạp Lục, Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977
Nguyễn Văn Siêu, Phương Đình Địa Dư Chí, Tự Do, Sài Gòn, 1959
Nguyễn Tài Cẩn, Giáo trình Lịch sử ngữ âm tiếng Việt, Giáo Dục, Hà Nội, 1995
Nguyễn Văn Dương, Lược Sử Chữ Hán, Tài liệu in ronéo dành cho sinh viên Đai học Văn Khoa Huế, 1974
Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn, Khởi Nghĩa Lam Sơn, Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977.
Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, .. ., Lịch Sử Việt Nam, tập 1, ĐHTHCN, Hà Nội, 1983
Trần Quốc Vượng, Miền Trung Việt Nam và Văn Hóa Champa, Tạp chí Nghiên Cứu Đông Nam Á, số 4/1995.
Vũ Ngọc Khánh, Lê Lợi, con người và sự nghiệp, Thanh Hoá, 1985.
Maspero, G.,  Le Royaume du Champa, Paris, 1928.    
Keith W. Taylor, The Early Kingdoms, in Nicolas Tarling (ed.) The Cambridge History of Southeast Asia, Vol I, Cambridge University Press, 1994.

  • VÕ VĂN THẮNG


[1] 1806
[2] Đà Sơn: tên một làng ở chân núi phía nam đèo Hải Vân, tên làng vẫn còn đến ngày nay.
[3] Đà Ly: tên một làng dọc hai bên bờ con sông đổ ra cửa Đà Nẵng, cách làng Đà Sơn chừng 15km về phía nam. Đà Sơn và Đà Ly là hai trong số một ít địa danh có ghi trong một bản đồ thế kỷ 17 (in trong tập: Hồng Đức Bản Đồ, Sài Gòn 1962, tr.149)
[4] Căn cứ vào cách nói ở một chỗ khác trong phổ chí, Thanh Lam được hiểu là vùng Lam Son, Thanh Hoá. (Xem chú thích 28,29)
[5] Sách Thuỷ Kinh Chú, Cựu Đường Thư, Địa Lý Chí cho biết Việt Thường ở vào miền quận Cửu Đúc (tức miền Hà Tĩnh). Văn hiến thông khảo cho rằng Việt Thường xưa là tương đương với nước Lâm ấp, sau là Chiêm Thành. Minh sử và Đai Minh Nhất Thống Chí cũng cho r ằng Việt Thường là đất Lâm ấp (Nguyễn Trãi Toàn Tập, tr 563). Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Kỷ Hồng Bàng) thì trong nước Văn Lang của các vua Hùng có một bộ tên là bộ Việt Thường. Phương Đình Địa Dư Chícho rằng các tỉnh Nghệ An, Quảng Nghĩa đều là đất Việt Thường xưa (tr 135,156). Đại Nam Nhất Thống Chí (tỉnh Quảng Nam) viết: “Quảng Nam xưa là đất Việt Thường Thị”(tr 291)
[6] Lâm Bình: nguyên là đất châu Địa Lý của Chiêm Thành, nay là phần đất tỉnh Quảng Bình. Năm 1069, Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Chế Củ dâng ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính. Năm 1075, Lý Nhân Tông đổi Địa Lý ra châu Lâm Bình.
[7] Theo Phủ Biên Tạp Lục : “Năm Đinh Sửu (1697), (chúa Nguyễn) sai tướng đi đánh Chiêm Thành. Vua nước ấy xin hàng phục, hàng năm nộp cống phú. Nhân lấy đất từ Phan Rí, Phan Rang trở về tây đặt làm hai huyện An Phước và Hoà Đa phủ Bình Thuận, đổi nước Chiêm Thành làm trấn Thuận Thành, phong cho con vua cũ nước ấy làm cai cơ, tước hầu” (tr.64)
[8] Theo truyền thuyết được chép trong Nghệ Văn Chí của Hán Thư thì vào cuối đời Hán Vũ Đế (140-67 tr C.N.), Lỗ Cung Vương phá nhà Khổng Tử để mở rộng cung thất mà được mấy chục thiên Thượng Thư, Lễ Ký, Luận Ngữ, Hiếu Kinh dấu ở trong vách và đều chép bằng thứ chữ cổ. Lỗ Cung Vương thấy hình thể các chữ cổ ấy ngoằn ngoèo, bèn cho là hình những con nòng nọc, do đó mà có danh từ khoa đẩu văn.(Nguyễn Văn Dương, Lược sử chữ Hán). Theo cách viết ở một đoạn sau của phổ chí này, thì khoa đẩu được hiểu là dùng để chỉ chữ Chiêm, một loại chữ cũng có dạng ngoằn ngoèo.( Xem Chú thích 10 và 27)
[9] Một số sách về lịch sử Champa có chép là: Năm 315, vua Champa có một cố vấn người Trung Hoa. Khi vua Champa chết, vị cố vấn này tiếm ngôi.(Nguyễn Văn Siêu, tr.182; Dohamide, tr.31, Phan Huy Lê (1983), tr.292, 293), Maspero, tr 56-58). Tên gọi Trịnh Giác Mật và Đà Giang có nhắc đến trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ở một sự ki ện xảy ra năm 1280 và không có liên quan gì đến Champa.
[10] Có thể hiểu là một người con gái trong hoàng tộc
[11] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có chép việc Sạ Đẩu là chúa nước Chiêm Thành, bị giết trong một trận giao tranh với quân Việt do vua Lý Thánh Tông chỉ huy vào năm 1044. Dường như đối với các tác giả phổ chí này, các vua đời Trần và trước đời Trần đều được gọi chung là “Trần Chúa
[12] Phổ chí nhắc đến hai trường hợp làm rể vua Việt. Trong sử Việt, có nhắc đến  trường hợp vua Trần gả công chúa Huyền Trân cho vua Chăm là Chế Mân vào năm 1306, với món sính lễ vua Chăm dâng cho vua Trần là phần đất Ô, Lý, nay là vùng Quảng Trị, Thừa Thiên, và Đà Nẵng.
[13] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có chép một số trường hợp các quan, tướng của Chiêm Thành lánh nạn sang Đai Việt, được vua Việt phong quan tước và giao trông coi các vùng giáp ranh vói Chiêm Thành, như trường hợp con trai của vua Chăm Chế A Nan năm 1352, trường hợp tướng Chiêm Thành Chế Ba Điệt năm 1397, và trường hợp hai con trai của Chế Bồng Nga năm 1390, 1402.
[14] Trùng Quang là niên hiệu của vua Trần Quý Khoáng(1409-1413). Chỗ này có sự nhầm lẫn , không thống nhất với chi tiết ở đoạn sau, nói rằng Phan Tiên công qua đời năm Hồ Khai Đại thứ ba, 1405.
[15] Câu Đê: tên làng ở chân núi phía nam đèo Hải Vân.
[16] Thuộc tỉnh Quảng Ngãi ngày nay.
[17] Địa danh Điện Bàn xuất hiện trong Dư Địa Chí (của Nguyễn Trãi, thế kỷ XV ?) là tên gọi một huyện cực nam của Đại Việt thời bây giờ, nay là phần đất từ đèo Hải Vân (Đà Nẵng) đến khoảng sông Thu Bồn (Quảng Nam)
[18] Các địa danh này hiện thuộc tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng.
[19] Các ông Phan Công Thiên, Kiều Lệnh, Đỗ Tuyết, Nguyễn Đăng được nhân dân làng Đà Sơn xem là tiền hiền của làng, cúng tế hàng năm. Tại nhà thờ làng hiện còn giữ các sắc phong của các vua Nguyễn cho các vị tiền hiền này.
[20] Hồ Quý Ly phế nhà Trần vào năm 1400.
[21] Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, cuộc tiến quân của nhà Hồ vào vùng Quảng Nam xảy ra vào năm 1402, thu thêm được đất của Chiêm Thành, lập ra các châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Người Chiêm Thành có số đi, số ở lại. Năm 1403, nhà Hồ đem những người không có ruộng mà có của dời đến Thăng Hoa, biên chế thành quân ngũ. Quan lại ở các lộ, phủ, châu, huyện xem đất cho họ ở.
[22] Khai Đại là niên hiệu của Hồ Hán Thương, bắt đầu từ 1403.
[23] Tức năm 1405
[24] Xem chú thích 10.
[25] Đai Việt Sử Ký Toàn Thư có chép: “(Đời vua Trần,1374) xuống chiếu cho quân và dân không được mặc áo, chải đầu theo người phương Bắc và bắt chước tiếng nói các nước Chiêm, Lào”. Dư Địa Chí cũng có chép việc này.
[26] Lê Lợi bắt đầu cuộc khởi nghĩa vào năm 1418 tại Lam Sơn, Thanh Hoá. Sau 20 năm kháng chiến chống Minh, Lê Lợi giành thắng lợi và lên ngôi vua năm 1428.
[27] Xem chú thích 6
[28] Keith W. Taylor, The Early Kingdoms, in Nicolas Tarling (ed.) The Cambridge History of Southeast Asia, Vol I, Cambridge University Press, 1994, tr 157.
[29] -Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn, Khởi Nghĩa Lam Son, Nxb KHXH, 1977, tr 121,157
   -Vũ Ngọc Khánh, Lê Lợi, con người và sự nghiệp, Nxb Thanh Hoá, 1985, tr 22, 50, 51
[30] Các kết quả nghiên cứu công bố gần đây của ngành ngôn ngữ học lịch sử cũng cung cấp một số chứng cứ cho mối quan hệ này. (Xem: Nguyễn Tài Cẩn, Giáo trình Lịch sử ngữ âm tiéng Việt)

[31] Tác  giả xin chân thành cám ơn bà con tộc Phan ở hai làng Đà Sơn, Đà Ly và nhiều địa phương khác đã giúp đỡ, phối hợp trong việc khảo sát, nghiên cứu bản phổ chí độc đáo này.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét